Bí mật về các hồ nước mặn trên thế giới

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
Chia sẻ lên facebook Chia sẻ lên twitter In trang này
Biển Aral (Liên Xô cũ) 68.000km2 và hiện nay chỉ còn 42.000km2 (Ảnh: NASA)

Cho dù được hình thành một cách tự nhiên hay từ một phần của đại dương, nhưng các hồ nước mặn trên thế giới luôn là mục tiêu nghiên cứu của các nhà khoa học và là nơi thu hút đông đảo du khách và các nhà thám hiểm.

Một hồ được xem là nhiễm mặn khi nồng độ muối đo được trong nước là từ 25gr/lít, trong khi nồng độ muối bình quân trong nước biển là từ 35-42gr/lít. Một hồ nước được cho là nhiễm mặn quá mức khi có nồng độ muối trên 50gr/lít. Tuy nhiên, nồng độ nhiễm mặn của các hồ nước không cố định mà biến thiên theo địa lý và thời tiết.

Cho đến nay trên trái đất đã hình thành hai nhóm hồ nước mặn. Loại thứ nhất được hình thành từ các mảng đại dương cổ bị chia cắt bởi thay đổi kết cấu của kiến tạo địa tầng trái đất. Điển hình của loại hình thái này là biển Caspienne và biển Aral (đều thuộc Liên Xô cũ), biển Chết (giữa Israel và Jordanie) và biển Tibériade (Somali). Thế nhưng đó chỉ là những trường hợp rất hiếm. Thực ra, các biển trên là những hồ nước mặn do không có đường thông thương với các biển khác hay đại dương.

Trong khi biển Caspienne và biển Aral là những hồ nước mặn lớn hình thành từ vết tích còn lại của một biển cổ bị chia cắt bởi đại dương từ cách đây 5 triệu năm, thì biển Chết có nồng độ mặn cao gấp 10 lần mức bình thường do sự hình thành ở đáy một lớp muối có độ dày đến 7km. Trong khi đó nước của biển Tibériade, hình thành từ một sự chia cắt với Ấn Độ Dương lại ngày càng bớt mặn do muối không kết tụ được ở đáy.

Biển Caspienne (Liên Xô cũ) có diện tích 374.000km2 (Ảnh: Free.fr)

Nhóm các hồ nước mặn thứ hai bao gồm các hồ khép kín không có đường thông thương. Đa phần các hồ này hình thành trong các lòng chảo như hồ Eyre ở Autralia hay từ các vết nứt của địa tầng như hồ Issyk-Koul ở Kirghizistan ở độ cao 702m so với mực nước biển. Trong lòng hồ chỉ có những hố sâu mới có nước mặn, phần còn lại đều bị bao phủ bởi một lớp muối dày đến 4m. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, hồ Eyre chỉ ngập nước có 4 lần mà lần mới nhất là vào năm 1991.

Trong nhóm các hồ nước mặn khép kín này lại hình thành hai nhóm nhỏ. Ở nhóm nhỏ thứ nhất, muối hình thành từ kết cấu địa chất của lòng hồ, như các đầm nước mặn có tên gọi sebkhas ở Maroc, Mali và Niger (đều ở châu Phi). Trong nhóm nhỏ này cũng có những hồ bị nhiễm mặn do thẩm thấu nước từ biển qua các lớp địa tầng. Điển hình là hồ nước mặn Assal ở Djibouti. Được hình thành cách đây 4 triệu năm, hồ Assal bị nhiễm mặn do nước biển thẩm thấu qua các lớp đất đá nằm ở độ sâu 165m dưới đáy hồ. Theo thời gian đã hình thành nên một lớp muối dày 25m khắp lòng hồ Assal và trở thành một mỏ muối lộ thiên khổng lồ.

Ở nhóm nhỏ thứ hai, muối được các dòng sông tràn bờ hay các cơn lũ mang theo vào hồ nước. Do không có nhánh thông thương với biển hay đại dương, nước của các hồ này một khi bốc hơi đã hình thành nên các vỉa muối bám vào các vách đá hay lẫn trong cát dưới đáy hồ. Loại hồ nước mặn này xuất hiện nhiều ở bang Saskatchewan và Manitoba của Canada.

Hồ Eyre (Australia) có diện tích 7.700km2 (Ảnh: NASA)

Thế nhưng, cho dù muối có tự hình thành ở đáy hồ hay được mang đến bởi những yếu tố khác thì đa số các hồ nước chỉ bị nhiễm mặn dần theo thời gian, chủ yếu qua hình thức bốc hơi của nước. Hồ Nhiễm mặn lớn, hồ Walker ở bang Nevada, Mỹ, hồ Magadi ở Kenya, hồ Issyk-Koul ở Kirghi Zistan là những ví dụ điển hình. Do không có nhánh thông thương nên nước mặn trong hồ bốc hơi và làm độ mặn tăng cao. Hồ càng mặn chừng nào, như hồ Nhiễm mặn lớn, biển Aral hay hồ Poopo ở Bolivia, thì độ nhiễm mặn càng cao chừng ấy.

Trong tình hình bị nhiễm mặn như thế thì môi trường sống tại các hồ nước mặn phát triển như thế nào? Quả thật là điều kiện sống rất khó khăn do tinh thể muối được giải phóng từ nước mặn, tác động một cách tiêu cực đến tế bào của các cơ thể sống khiến cho hiện tượng mất nước phát triển nhanh chóng. Tại những hồ bị nhiễm nước mặn bình thường (từ 25-50gr muối/lít), sự sống vẫn hình thành bình thường như tại các biển hay đại dương.

Ngược lại, tại các hồ bị nhiễm mặn quá mức, các loại động vật có xương sống và không có xương sống ít có cơ may tồn tại. Rất ít loại cá, loại giáp xác, rong tảo có thể sinh tồn được. Và để tồn tại trong môi trường quá nhiễm mặn, một số loại giáp xác đã hình thành nên cơ chế tự bảo vệ đặc biệt. Chẳng hạn như loại tôm có tên gọi epinoche, mỗi khi nồng độ của muối trong nước tăng cao, tôm epinoche lại bọc kín tất cả các bộ phận của chúng bằng một lớp vảy dày. Thế nhưng, chính độ mặn quá mức của hồ nước Mono ở bang California, Mỹ, lại là điều kiện để phát triển một loài giáp xác có trữ lượng đến 4.000 tỉ con làm thức ăn cho tảo artemia.

Hồ Balkhash (Nga) 18.200km2 (Ảnh: cache.eb.com)

Các hồ nước mặn còn là môi trường sống của các loại sinh vật đơn bào như loại tảo xanh Fabrea salina. Điểm đặc biệt của loại tảo này là chúng có thể đổi màu từ xanh sang màu cam tùy theo độ mặn tăng cao của nước hồ. Ngoài ra, màu nước của các hồ nước mặn luôn biến đổi từ màu xanh sang màu hồng và cam như là cách giúp các sinh vật hấp thụ được năng lượng từ mặt trời.

Tương lai nào cho các hồ nước mặn trên thế giới? Sự nóng dần của trái đất làm tăng nhanh sự bốc hơi của nước sẽ khiến các hồ này ngày càng nhiễm mặn và là nguyên nhân khiến các sinh vật sinh sống trong các hồ bị tuyệt chủng dần. Chính con người đã làm cho các hồ nước mặn, vốn là kỳ quan do thiên nhiên ban tặng cho trái đất, sẽ biến mất trong tương lai.

Bốn hồ nước mặn lớn nhất thế giới là: biển Caspienne (Liên Xô cũ) có diện tích 374.000km2, biển Aral (Liên Xô cũ) 68.000km2 và hiện nay chỉ còn 42.000km2, hồ Balkhash (Nga) 18.200km2, hồ Eyre (Australia) có diện tích 7.700km2.

Bốn hồ bị nhiễm mặn quá mức là: hồ Patience (Canada) có độ mặn 443gr muối/lít, hồ Assal (Djibouti) có độ mặn 350gr muối/lít, hồ Nhiễm Mặn Lớn (Mỹ) có độ mặn 285 gr muối/lít, biển Chết (Trung Đông) 280gr muối/lít.


Nguồn[sửa]

  • Hoàng Phú, Theo Géo , CAND.com.vn
Chia sẻ lên facebook Chia sẻ lên twitter In trang này