Chăm sóc trẻ sơ sinh đủ và thiếu tháng

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

- Giai đoạn chu sinh: từ tuần thứ 28 đến ngày thứ 7 sau sinh.

- Giai đoạn sơ sinh: từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 28 sau sinh.

+ Giai đoạn sơ sinh sớm: ngày thứ 1 đến ngày thứ 7 sau sinh.

+ Giai đoạn sơ sinh muộn: từ ngày thứ 8 đến ngày 28 sau sinh.

Sự thích nghi với cuộc sống bên ngoài tử cung[sửa]

Giai đoạn thích nghi là giai đoạn sau sinh, trẻ sơ sinh chuyển từ giai đoạn phụ thuộc vào mẹ trong tử cung sang giai đoạn độc lập thở bằng đường hô hấp. Để cho giai đoạn chuyển tiếp này được điều hòa cần phải có:

- Hô hấp hiệu quả.

- Hệ tuần hoàn phải thích nghi.

- Thận chịu trách nhiệm điều hòa môi trường nội mô tốt.

- Cơ thể tự điều hòa thân nhiệt.

- Cơ thể tự điều hòa mức đường máu trong giới hạn bình thường.

Khai thác bệnh sử và tiền sử[sửa]

Quan trọng để có hướng xử trí riêng cho từng trẻ sơ sinh. Nó cho hướng làm xét nghiệm cho trẻ tùy theo dữ kiện khai thác được.

Hỏi cha mẹ, người đỡ đẻ, bác sĩ chăm sóc trẻ và gia đình.

Tiền sử gia đình[sửa]

Khai thác những bệnh di truyền có tính chất gia đình.

Khai thác những trường hợp tử vong thời kỳ sơ sinh không rõ nguyên nhân, có nghi ngờ do bệnh chuyển hóa.

Tiền sử mẹ[sửa]

Khai thác những bệnh lý trước khi mang thai có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp cho thai.

Diễn biến chính xác quá trình thai nghén[sửa]

- Kiểu theo dõi trong thai kỳ.

- Nhiễm trùng:

+ Virus vào lúc bắt đầu thai nghén: nguy cơ bệnh lý bào thai.

+ Vi khuẩn vào cuối thời kỳ thai nghén: nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm truyền bằng đường mẹ - thai và đẻ non.

Diễn biến của chuyển dạ[sửa]

- Tuổi thai theo lý thuyết: tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng đến ngày sinh, tổng số ngày chia cho 7 ra số tuần.

- Ối vỡ sớm > 8 - 10 giờ: nguy cơ nhiễm trùng.

- Đa ối - thiểu ối: nguy cơ dị tật bẩm sinh.

- Thời gian và diễn biến của chuyển dạ.

- Can thiệp thủ thuật sản khoa.

- Sinh bằng đường dưới hoặc mổ lấy thai.

- Dịch ối xanh, nhịp tim thai bất thường trong quá trình chuyển dạ, nhịp tim thai bất thường khi làm Echo - Doppler. Đó là những dấu hiệu chứng tỏ có tổn thương thần kinh (nguy cơ ngạt sau sinh).

- Mẹ nghiện thuốc, mẹ có dùng thuốc gây mê.

- Tình trạng nhau thai (khám xét bánh nhau).

Khám trẻ sơ sinh[sửa]

Xác định tuổi thai[sửa]

Định nghĩa[sửa]

Thời gian mang thai được tính theo tuần mất kinh (từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng):

Sơ sinh đủ tháng (SSĐT): 37 - 42 tuần (259 - 293 ngày).

Sơ sinh đẻ non (SSĐN): < 37 tuần (< 258 ngày).

Sơ sinh già tháng (> 294 ngày).

Xác định tuổi thai[sửa]

- Theo tiêu chuẩn sản khoa:

+ Ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng: cho phép xác định khá chắc chắn lúc bắt đầu có thai nhưng: không phải khi nào cũng nhớ ngày kinh, không luôn luôn đáng tin cậy khi gặp những chu kỳ kinh guyệt không đều hoặc vẫn có chảy máu kinh mặc dù đã bắt đầu thai nghén. Đường biểu diễn nhiệt độ cho biết ngày rụng trứng nhưng không phải người phụ nữ nào cũng lấy diễn biến nhiệt độ.

+ Echo thai sớm: trước 12 tuần, đo kích thước của thai bằng Echo cho phép xác định ngày có thai nhưng với sai số 5 ngày.

+ Những tiêu chuẩn sản khoa khác:

Đo bề cao tử cung.

Khám 1 số thành phần của dịch ối.

- Những tiêu chuẩn nhi khoa:

Đánh giá sự trưởng thành của trẻ sơ sinh về phương diện nhi khoa rồi so sánh với tuổi thai tính theo sản khoa.

+ Tiêu chuẩn về hình thái:

Cho phép đánh giá tuổi thai lúc quan sát trẻ. Dựa vào tiêu chuẩn Farr cho phép tính điểm những tiêu chuẩn khác nhau về hình thái. (kiểu da, tính chất phù, lông tơ, độ uốn cong của vành tai, sụn vành tai, cơ quan sinh dục ngoài...).

+ Tiêu chuẩn về thần kinh: đặt biệt khám trương lực cơ cho phép đánh giá tuổi thai về thần kinh. Khám thần kinh để đánh giá tuổi thai sẽ không chính xác trong các trường hợp sau:

Bệnh lý thần kinh.

Sơ sinh được dùng thuốc an thần.

Những bệnh lý hiện có.

Xác định mức độ dinh dưỡng của trẻ sơ sinh trong thai kỳ[sửa]

Định nghĩa: Phải xem xét trẻ thuộc 1 trong 3 loại sau:

- Bình dưỡng: cân nặng tương ứng với tuổi thai.

- Thiểu dưỡng: cân nặng thấp hơn so với tuổi thai.

Trong thực hành, người ta dùng thuật ngữ "đẻ yếu" để gọi những trường hợp chậm phát triển chỉ mới ảnh hưởng đến cân nặng; và dùng thuật ngữ "suy dinh dưỡng bào thai" để gọi những trường hợp chậm phát triển ảnh hưởng đến cả cân nặng, vòng đầu và chiều cao.

- Tăng dưỡng: cân nặng lớn hơn cân nặng của tuổi thai.

Những chỉ số đo ở trẻ sơ sinh:

Bao gồm: cân nặng, chiều cao, vòng đầu. Phải đo những thông số này một cách có hệ thống, rồi so những thông số này với tuổi thai. Mỗi một trẻ sơ sinh được xếp loại dựa theo cả 2 tiêu chuẩn sau:

- Mức độ trưởng thành (đủ tháng, đẻ non, đẻ yếu).

- Mức độ dinh dưỡng: bình dưỡng, thiểu dưỡng, tăng dưỡng.

Tùy theo phân loại sơ sinh sẽ có cách xử trí và chăm sóc riêng.

SSĐT có những đặc điểm sau:

Cân nặng trung bình 3300 g theo tác giả nước ngoài.

Khám trẻ sơ sinh trong phòng sinh[sửa]

Khám trẻ sơ sinh trong phòng sinh ngay sau khi sinh để đánh giá tình trạng trẻ có cần can thiệp hồi sức hay không:

Cần thực hiện một cách có hệ thống những bước sau:

- Đặt trẻ trên bàn sưởi ấm.

- Hút mũi, miệng, hầu họng nếu có hít nước ối, cần phải hút trực tiếp qua khí quản bằng đèn nội khí quản hoặc ngay sau khi đặt nội khí quản trước khi bóp bóng.

- Đếm nhịp thở, tần số tim, tính chất tiếng khóc, màu da của trẻ và khả năng trẻ đáp ứng với kích thích.

- Đánh giá chỉ số APGAR: tính điểm ở phút thứ 1 và phút thứ 5, 10.

Nếu > 8 điểm ở phút thứ 1 là bình thường.

Nếu < 3 điểm ở phút thứ 1: chết lâm sàng cần hồi sức cấp cứu.

Từ 3 - 7 điểm ở phút thứ 1: suy thai ở mức độ trung bình, phải có thái độ điều trị thích hợp.

- Đưa ống sonde mềm qua mũi để xác định 2 lỗ mũi sau có thông không, xác định thực quản và hậu môn có thông hay không?

- Lấy nhiệt độ.

- Lấy đường máu (làm Dextrotix), nguy cơ cao ở sơ sinh đẻ non, sơ sinh đẻ yếu, con của bà mẹ đái tháo đường.

- Khám từng bộ phận.

- Thực hiện một cách có hệ thống trên mọi trẻ:

Nhỏ mắt (dự phòng viêm kết mạc mắt do lậu cầu).

Tiêm Vitamine K (5 mg) tiêm bắp (ngăn ngừa bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh) Hoặc vitamine K1 bằng đường uống 2 mg ở ngày thứ 1 (lập lại ở ngày thứ 2 và thứ 3).

Tiếp tục mỗi tuần 2 mg ở trẻ bú mẹ.

Vitamine D2, D3 400 - 800 UI/ ngày.

Tất cả những thủ thuật trên phải làm trong điều kiện vô trùng.

Sau khi khám xét trong phòng sinh xong, nếu trẻ bình thường được giữ ở nhà hộ sinh 5 ngày. Trong thời gian này trẻ phải được khám ít nhất 2 lần; ở ngày thứ 1 và ngày tứ 5 để phát hiện những bất thường và bệnh lý khác.

Khám xét từng cơ quan[sửa]

Phân loại trẻ sơ sinh[sửa]

Tuỳ mức độ trưởng thành và dinh dưỡng, dựa trên tuổi thai, cân nặng, chiều cao và vòng đầu tương ứng tuổi thai, sơ sinh được phân làm 3 loại.

Sơ sinh đủ tháng[sửa]

Sơ sinh đủ tháng bình dưỡng:[sửa]

cân nặng, chiều cao và vòng đầu tương ứng tuổi thai:

- Tuổi thai 38-42 tuần.

- Cân nặng > 2500 g.

- Chiều cao > 47 cm.

- Vòng đầu > 32 cm.

Sơ sinh đủ tháng thiểu dưỡng = Sơ sinh đẻ yếu[sửa]

- Tuổi thai 38 - 42 tuần.

- Cân nặng và/ hoặc chiều cao nhỏ hơn tuổi thai gọi là sơ sinh đẻ yếu, cả cân nặng, vòng đầu và chiều cao nhỏ hơn so với tuổi thai đủ tháng gọi là suy dinh dưỡng bào thai.

Sơ sinh quá dưỡng:[sửa]

cân nặng lớn hơn so với tuổi thai.

Sơ sinh đẻ non[sửa]

Đẻ non bình dưỡng:[sửa]

cân nặng, chiều cao, vòng đầu và tuổi thai tương ứng nhau.

Đẻ non thiểu dưỡng:[sửa]

cân nặng, chiều cao và vòng đầu nhỏ hơn so với tuổi thai (sơ sinh đẻ non yếu).

Sơ sinh già tháng[sửa]

- Tuổi thai > 42 tuần.

- Da bong.

- Móng tay, móng chân dài nhuốm vàng hoặc xanh .

- Cuống rốn vàng úa hoặc xanh thẩm màu phân su.

Những nguy cơ gặp phải trong quá trình chăm sóc các loại trẻ sơ sinh[sửa]

Sơ sinh đủ tháng[sửa]

Những bệnh lý có thể gặp phải trong quá trình nuôi dưỡng trẻ sơ sinh đủ tháng bình thường:

Nhiễm trùng sơ sinh sớm truyền bằng đường mẹ - Thai, nhiễm trùng sơ sinh mắc phải.

Vàng da tăng bilirubine tự do.

Xuất huyết giảm tỷ prothrombin.

Trào ngược dạ dày- thực quản.

Hạ đường máu nếu nuôi dưỡng không đúng.

Hạ calci máu.

Sơ sinh đẻ non[sửa]

Những bệnh lý có thể gặp phải trong quá trình nuôi dưỡng trẻ đẻ non:

- Suy hô hấp ở trẻ sơ sinh.

- Nhiễm trùng sơ sinh sớm truyền băng đuờng mẹ thai.

- Nhiễm trùng sơ sinh mắc phải đặt biệt trên những trẻ có can thiệp nhiều thủ thuật hồi sức như đặt nội khí quản, chuyền dịch nuôi dưỡng bằng dung dịch Glucose.

Vàng da tăng bilirubine tự do.

- Bệnh lý não: thường gặp bệnh nhuyễn hóa chất trắng (Leucomalacie), xuất huyết trong não thất do thiếu oxy hoặc do giảm tỷ prothrombine.

- Bệnh lý thuộc về chuyển hóa như hạ đường máu hoặc hạ calci máu.

- Bệnh lý thuộc về tiêu hóa như trào ngược dạ dày- Thực quản,không dung nạp được sữa pha.

- Hạ thân nhiệt (có thể nằm trong bối cảnh bệnh lý).

Sơ sinh đẻ yếu[sửa]

Những tai biến gặp phải trong quá trình nuôi dưỡng trẻ đẻ yếu:

- Thiếu oxy: có thể xuất hiện ngay trong tử cung, những cơn co thắt tử cung trong khi chuyển dạ có thể làm nặng nề thêm tình trạng thiếu oxy này và làm bộc lộ ra tình trạng có sẵn. Thiếu oxy có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, có thể bệnh cảnh ngạt, hít nước ối, thiếu máu cục bộ thiếu oxy, có thể làm nặng nề thêm tình trạng hạ đường máu có sẵn, suy tim sung huyết...

- Hạ đường máu: thường hay xảy ra ở loại trẻ này. Định nghĩa hạ đường máu khi tỷ lệ đường trong máu < 3% hoặc dưới 2 mmol. Có những triệu chứng lâm sàng sau đây: run, co giật, giảm trương lực cơ, ngưng thở, nhưng cũng có những trường hợp hạ đường huyết nhưng không có triệu chứng lâm sàng rõ. Tuy nhiên cần phải cảnh giác để phát hiện ra vì sẽ có những di chứng tinh thần kinh trầm trọng sau này.

- Hạ thân nhiệt:

Là một nguy cơ thường hay gặp ở trẻ đẻ yếu khi tiếp xúc với nhiệt độ của môi trường trong phòng sinh.

Tình trạng hạ đường máu và hạ calci máu sẽ làm cản trở sự sinh nhiệt mặt khác sự phân ly nhiệt lớn vì bề mặt da tương đối lớn so với cân nặng của cơ thể. Mô mỡ mỏng làm dễ cho sự mất nhiệt bằng bức xạ.

- Đa hồng cầu:

Do bởi sự tăng sản sinh erythropoietine (Tỷ lệ trong máu cuống rốn tăng cao) nó cũng có thể dẫn đến tình rạng giảm oxy trong bào thai, ngoài ra sự giảm oxy trong khi sinh có thể dẫn đến tình trạng tưới máu từ bánh nhau qua thai; sự tăng thể tích máu theo sau sự hạ thể tích huyết tương trong 6 giờ đầu có thể đưa đến tăng cô đặc máu và đa hồng cầu. Bệnh cảnh này có thể làm tăng độ quánh của máu.

- Viêm ruột hoại tử sơ sinh:

Có liên quan đến tình trạng giảm oxy và tăng cô đặc máu dẫn đến thiếu máu cục bộ mạc treo.

Sơ sinh già tháng[sửa]

Có thể phân độ già tháng một cách chung nhất như sau:

Độ già tháng Độ I Độ II Độ III
Da Bong Bong từng mảng Bong diện tích rộng
Cuống rốn Héo Vàng úa Xanh thẫm phân su
Móng tay móng chân Dài Dài vàng Dài, xanh thẫm màu phân su.

Những nguy cơ gặp phải trong quá trình chăm sóc trẻ sơ sinh già tháng:

- Suy thai cấp hoặc mạn, có thể ngạt do hít nước ối.

- Bệnh lý não cấp thiếu máu cục bộ do thiếu oxy.

- Cung cấp dinh dưỡng giảm có thể dẫn đến hạ đường máu.

Tiên lượng gần tùy theo mức độ suy thai có tổn thương thần kinh nặng hay nhẹ, thường tiên lượng tử vong cao nếu có ngạt nặng gây tổn thương nặng nề ở hệ thần kinh hoặc hạ đường máu không điều trị đúng.

Những bệnh lý ngoại khoa sơ sinh cần điều trị cấp cứu[sửa]

- Teo thực quản.

- Teo và hẹp ruột: là nguyên nhân quan trọng gây tắc ruột ở trẻ sơ sinh. Teo ruột là hiện tượng tắc ruột bẩm sinh do bít tắc hoàn toàn lòng ruột, chiếm 95%; còn hẹp ruột là bít tắc không hoàn toàn lòng ruột dẫn đến bán tắc ruột, chiếm 5%.

Các biểu hiện lâm sàng chủ yếu của teo ruột gồm nôn ra dịch mật, bụng chướng và không ỉa phân su ngay từ ngày đầu sau đẻ.

- Tắc tá tràng.

- Tắc ruột phân su.

- Viêm phúc mạc phân su.

- Thoát vị cơ hoành bẩm sinh.

- Dị tật hậu môn - trực tràng.

- Hẹp phì đại môn vị.

- Hẹp lỗ mũi sau.

- Hội chứng Pierre-Robin.

Chăm sóc trẻ sơ sinh[sửa]

Chăm sóc tại nhà hộ sinh[sửa]

Những nét chính trong chăm sóc trẻ sơ sinh tại nhà hộ sinh:[sửa]

Trẻ sơ sinh đủ tháng bình thường có thể ở lại nhà hộ sinh, nơi nó được sinh ra từ 4 đến 7 ngày. Trong giai đoạn này phải thăm khám sơ sinh lần thứ 1 nhằm những mục tiêu sau:

- Bắt đầu cho bú.

- Phát hiện bệnh lý trên lâm sàng, những bệnh lý nội khoa và ngoại khoa cần điều trị cấp cứu.

- Nếu phát hiện bệnh vượt quá khả năng của bác sĩ tại nhà hộ sinh sẽ có hướng chuyển trẻ lên khoa nhi sơ sinh gần nhất.

Phải tôn trọng những nguyên tắc vệ sinh. Phải rửa tay thường xuyên. Có bồn rửa tay đạp bằng chân, xà phòng sát khuẩn, giấy lau tay. Giải thích cho mẹ và những người đến thăm để phòng chống nguy cơ nhiễm trùng.

Chăm sóc cụ thể[sửa]

- Trong phòng sinh: lau chất gây bằng khăn vải có tẩm nước muối sinh lý. Cuống rốn và pince nhựa kẹp rốn được bọc quanh bởi một miếng gạc vô trùng và băng bằng băng vải vô trùng, được thay hàng ngày. Aó quần và tả lót nên may bằng vải.

Phòng nhiễm trùng mắt bằng cách nhỏ vào mỗi mắt một giọt Nitrate bạc 1% để sát khuẩn, riêng cho từng đứa trẻ, hoặc thuốc nhỏ mắt bằng kháng sinh.

- Tiếp theo đó: tắm trẻ hàng ngày bằng khăn vải với nước muối sinh lý, chỉ thực sự tắm ướt cho trẻ khi cuống rốn đã rụng thành sẹo hòan toàn, có thể tắm với dung dịch xà phòng thích hợp với pH da của trẻ sơ sinh. Không nên dùng kem hoặc sữa tắm vì có thể gây phản ứng dị ứng. Một số dung dịch như Eosine 2% có thể dùng để sát khuẩn, lau khô; bột tal, bột kẽm và đồng có thể bảo vệ mông và bẹn. Tuy nhiên thay tã lót mỗi khi đái ướt là cách tốt nhất để chống hăm lóet ở bẹn. Trong khi tắm sẽ chùi mắt, mũi, tai bằng bông cục cuộn tròn tẩm nước muối sinh lý.

Cho bú sữa mẹ hoặc sữa pha, các bữa bú phải thích hợp với chu kỳ ngủ- thức của trẻ đặt biệt trong những tuần đầu.

Trường hợp bú sữa mẹ: trước mỗi bữa bú mẹ phải lau quầng vú bằng gạc vô trùng Có thể cho thêm vitamine ngay trong những ngày đầu tiên hoặc ngay sau khi ra khỏi nhà hộ sinh: vitamin C 50 mg/ngày; vitamin D 800-1000 UI/ ngày. Cho thêm sắt chưa cần thiết ở giai đoạn này đối với trẻ sơ sinh bình thường. Cần cho thêm Fluor liều 0,25 mg/ngày.

Kiểm tra thân nhiệt, thường giao động nhiều theo thân nhiệt môi trường trong giai đoạn này.

Nếu cần thiết cho thuốc bằng đường tiêm bắp, thì không bao giờ được tiêm vào mông ngay cả trên ngoài vì có nguy cơ gây tổn thương dây thần kinh toạ, thích hợp nhất là tiêm ở phần giữa đùi mặt trước hoặc mặt ngoài, vị trí này tương đương với thân xương đùi, dùng tay véo da lên rồi chích vào.

Chăm sóc tuần đầu tiên tại nhà[sửa]

Vẫn còn nằm trong giai đoạn thích nghi, kéo dài đến cuối tháng đầu.

- Chăm sóc hàng ngày:

Ngay sau khi rốn khô, không cần băng rốn nữa; có thể rốn rụng để lại nụ rốn, có thể dùng nitrate bạc để chấm làm nhanh quá trình thành sẹo.

Tắm bằng nước phải được tiến hành ngay sau khi rốn rụng, không cần phải tắm hàng ngày, điều này phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của trẻ và của cả bà mẹ.

- Dinh dưỡng:

+ Dinh dưỡng bằng sữa mẹ: Cho bú càng sớm càng tốt ngay sau sinh để có thể bú được sữa non (là sữa mẹ sản xuất vài ngày đầu sau sinh), cho bú theo nhu cầu của trẻ, trẻ càng bú càng tăng sự xuống sữa. Nên cho bú một lần một vú để trẻ có thể tận dụng trong một bữa bú cả sữa đầu và sữa cuối, rồi lần bú sau thay qua bầu vú khác, để tránh hiện tượng cương sữa nếu chì cho bú một vú.

Những trường hợp chống chỉ định cho bú sữa mẹ:

- Mẹ đang bị lao tiến triển.

- Mẹ bị nhiễm trùng nặng.

- Thuốc điều trị bệnh lý tuyến giáp.

- Thuốc điều trị bệnh tâm thần kinh.

- Thuốc chống đông máu và chống ung thư.

+ Dinh dưỡng bằng sữa nhân tạo:

Chế phẩm sữa pha trên thị trường có nhiều, trên nguyên tắc pha gần giống sữa mẹ: rất ít ngọt, các thành phần lipide, caséine, muối gần giống sữa mẹ. Dùng sữa pha làm giảm khả năng chống nhiễm trùng của trẻ.

Số luợng và số lần cho bú phải tùy vào tuổi thai và cân nặng của trẻ sơ sinh, trường hợp trẻ non tháng, phản xạ mút và nuốt chưa tốt có thể cho chuyền nhỏ giọt qua sonde dạ dày. Đối với trẻ đẻ non phải chọn loại sữa pha dùng cho trẻ đẻ non.

Trẻ đẻ non có cân nặng < 1500 g, cho chuyền dịch trong những ngày đầu tiên (thường trong một tuần đầu), sau đó tùy theo tình trạng của trẻ cho bú liều sữa tăng lên dần dần, cho sữa mẹ hoặc sữa đẻ non.


Trẻ có cân nặng từ 1500 g đến 2000 g:

Sơ sinh đẻ non bình dưỡng Sơ sinh đẻ non thiểu dưỡng (SS non yếu)
Ngày thứ 1 60 ml/kg Ngày thứ 1 80 ml/kg
Ngày thứ 2 80 ml/kg Ngày thứ 2 100 ml/kg
Ngày thứ 3 100 ml/kg Ngày thứ 3 120 ml/kg
Ngày thứ 4 120 ml/kg Ngày thứ 4 140 ml/kg
Ngày thứ 5 140 ml/kg Ngày thứ 5 160 ml/kg
Ngày thứ 6 160 ml/kg Ngày thứ 6 180 ml/kg
Ngày thứ 7 180 ml/kg Ngày thứ 7 200 ml/kg
Ngày thứ 8 200 ml/kg Ngày thứ 8 220 ml/kg
Tùy theo tình trạng của trẻ cho chuyền sữa nhỏ giọt liên tục bằng máy qua sonde dạ dày rồi nhanh chóng chuyển sang không liên tục. Dùng sữa mẹ là tốt nhất hoặc xin sữa của người mẹ khác Tốt nhất là dùng sữa mẹ. Nếu không có sữa mẹ phải dùng loại sữa pha đặc biệt dùng cho trẻ đẻ non yếu, cho chuyền nhỏ giọt sữa liên tục qua sonde dạ dày bằng máy cho đến khi cân nặng đạt được 1800 g, chuyền sang không liên tục lúc đầu cho thành 10 bữa bú, tiếp đó 8 bữa rồi sau đó giảm thành 7 bữa nhưng tổng lượng sữa trong ngày vẫn giữ như cũ

Trẻ có cân nặng từ 2000-2500 g

Ngày thứ 1: 100 ml được phân thành 4 * 10 + 4 * 15

Ngày thứ 2: 140 ml được phân thành 4 * 15 + 4 * 20

Ngày thứ 3: 200 ml được phân thành 8 * 25

Ngày thứ 4: 240 ml được phân thành 8 * 30

Ngày thứ 5: 300 ml được phân thành 4 * 35 + 4 * 40

Ngày thứ 6: 360 ml được phân thành 8 * 45

Ngày thứ 7: 400 ml được phân thành 8 * 50

Ngày thứ 8: 440 ml được phân thành 8 * 55

Tốt nhất là sữa. Đối với trẻ đẻ yếu dùng sữa mẹ ít nhất trong 3 ngày sau đó nếu không có sữa mẹ có thể thay bằng sữa khác.

Cân nặng trên 2500 g và trẻ sơ sinh đủ tháng:

Ngày thứ 1 6 * 10 Ngày thứ 8 đến ngày thứ 15: 6 * 70

Ngày thứ 2 6 * 20 Ngày thứ 15 đến ngày thứ 21: 6 * 80

Ngày thứ 3 6 * 30 Ngày thứ 21 đến ngày thứ 30: 6 * 90

Ngày thứ 4 6 * 40 Lúc 1 tháng tuổi: 6 * 100

Ngày thứ 5 6 * 50 Lúc 1 tháng 1/2: 6 * 110.

Ngày thứ 6 6 * 60

Ngày thứ 7 6 *70

NGUỒN

Giáo trình bộ môn nhi, Đại học Y Dược Huế