Kỹ thuật nuôi Cá Rô Đồng

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
Chia sẻ lên facebook Chia sẻ lên twitter In trang này

Cá rô đồng (CRĐ) là loại thịt béo, thơm, dai, ngon, có giá trị cao, tiêu thụ khá mạnh cả ở nông thôn, thành phố. CRĐ lớn nhất phát hiện 300g/con, cỡ ca tiêu thụ rộng rãi 7-15 con/kg. CRĐ sống ở nước ngọt, chúng thường sinh sống được ở các loại hình mặt nước: ruộng lúa, ao mương, lung bào, đìa, sông rạch... Trên thế giới CRĐ phân bố ở Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Philippines, Châu Phi và các quần đảo giữa Ấn Độ và Chấu Úc.

Ảnh minh họa

CRĐ sống rất khỏe, có thể chịu đựng được điều kiện thiếu nước trong một thời gian khá lâu do chúng có cơ quan hô hấp trên mang, thở khí trời. CRĐ có thể ra khỏi nước 6 ngày mà không chết (nếu nang phụ không bị khô), dựa vào đặc điểm này có thể vận chuyển CRĐ tươi sống đi tiêu thụ ở các nơi.

CRĐ thích nghi với khí hậu nhiệt đới,lúc khô hạn cá có thể sống chui rúc trong bùn mấy tháng và có thể ra khỏi mặt nước đi một quãng tương đối xa để tìm nơi sinh sống, có thể lên đất khô tìm mồi ăn.

CRĐ nuôi dưỡng bằng giống nhân tạo, cho ăn đủ chăm sóc tốt, cá giảm hẳng tính hoang dã, gần như không đi. Có nơi nuôi 2.000 (m2) được 4,5 tấn CRĐ, không có rào, cá cũng không đi, bán giá bình quân 30.000đ/kg (20.000 - 45.000 đ/kg) lời 70.000.000 đ/vụ.

CRD (là loài cá ăn tạp nnghiêng về động vật do cấu tạo tiêu hóa ngắn so với chiều dài của thân cá 0,76 - 1,06. Cá có răng chắc, sắc, xếp thành dãy trên hai hàm, trên 2 hàm còn có răng nhỏ nhọn: hàm răng ở giữa to hơn hai bên và răng có trên xương lá mía. CRĐ có thể ăn các loài tép, tôm, cá, động vật không xương sống, côn trùng bay trong không khí, lúa, gạo, hạt cỏ, phân động vật,... CRĐ có thể tấn công các động vật nhỏ hơn chúng để ăn, nên được xếp loại cá dữ nhưng mức độ dữ có giới hạn.

Các giai đoạn phát triển của CRĐ[sửa]

  • Trứng sau khi thụ tinh 10 phút, noãn hoàng tách khỏi trứng.
  • 12 giờ 30 phút, hình thành đốt cơ, phôi cử động liên tục.
  • 17 giờ 20 phút, cá nở, cơ thể có nhiều sắc tố, noãn hoàng to, ống tiêu hóa thẳng, có đốt cơ.
  • 60 giờ sau khi nở cá ăn được phiêu sinh động vật (moina) và thức nhân tạo.
  • Ngày thứ 8 trở đi cá rượt đuổi những loài nhỏ hơn để ăn thịt.
  • Tính ăn động vật của cá thể hiện 8-10 ngày tuổi. Do đó ương CRĐ muốn có tỷ lệ sống cao phải cung cấp thức ăn đầy đủ, đặc biệt là thức ăn phải ở dạng lơ lửng trong nước vì cá không có tập tính sục đáy bể tìm thức ăn và cá giống khi ương nuôi phải hạn chế sự chênh lệch độ lớn về kích thước nhằm tránh cá ăn thịt lẫn nhau.
  • Ngày 10 cá dài 0,57 - 0,76cm.
  • Ngày 17 cá dài 0,96 - 1,2cm.
  • Ngày 30 cá dài 1,9 - 2,43cm.
  • Đến 20 ngày tuổi, CRĐ đã ngoi lên khỏi mặt nước đớp khí trời, điều đó chứng tỏ cơ quan hô hấp trên mang đã hình thành. Tốc độ tăng trưởng của CRĐ phụ thuộc vào thành phần và số lượng thức ăn cung cấp, bón phân kết hợp cho ăn tăng trưởng của cá cao nhất.

Sinh sản của CRĐ[sửa]

Ở điều kiện tự nhiên, mùa mưa bắt đầu là cá sinh sản, tập trung tháng 5-7 đến tháng 9 thoái hóa hoàn toàn. Trong sản xuất giống nhân tạo, chăm sóc cá cha mẹ tốt thời gian dài hơn 3 tháng. Cá đực thành thục sớm hơn cá cái, cuối vụ đực cái càng thoái hóa.

  • Sức sinh sản tuyêt đối: cá tự nhiên 10 - 11cm số trứng 8.656 trứng ± 1098, cá dài 18 - 19cm số trứng 42.847 trứng ± 972. Cá nuôi vỗ 12cm, số trứng 29.066 trứng khi đó ở tự nhiên có 16.559 trứng.
  • Đường kính của trứng 0,4-0,8mm, khi cá đã thụ tinh trứng trương lên 0,85 - 1,1mm.
  • CRĐ nuôi vỗ tái phát dục sau 3-4 tuần.

Kỹ thuật Sản xuất giống CRĐ[sửa]

Giống CRĐ có ở tự nhiên lúc Bà Chằn (tháng 5-6) bắt được giống CRĐ ở trên ruộng, mương bị cạn khá nhiều. Nhưng do đánh bắt cá bị xây xát, mất nhớt, cá chết tạ chỗ và sau đó chết dài dài vì bệnh. Cá còn sống mang tính hoang dã của cha mẹ, nên khi có dòng nước chảy vào, cá thường đi theodòng nước hoặc gặp nơi sống không thích hợp cá cũng đi. Nguồn giống CRĐ tự nhiên không đều, thiếu chủ động cung cấp giống theo yêu cầu nuôi. Giống CRĐ sản xuất nhân tạo, qua nuôi đại trà ở nhiều nơi, tính hoang dã của cá giảm hẳn, có nơi chỉ rào lưới 0,5m và có nơi không rào và cho cá ăn tốt cá cũng không đi.

a. Chuẩn bị cá cha mẹ:

Ao mương nuôi vỗ cá cha mẹ có diện tích từ 50 - 500 (m2), sâu 1m, được chuẩn bị từ tháng 11-1. Cá cha mẹ được nuôi dưỡng sớm, chăm sóc tốt, cá có thể đẻ sớm hơn thời vụ tự nhiên vào tháng 2-3dl và tháng 4-5 có cá giống cung cấp cho yêu cầu nuôi nữa và cuối năm đạt cỡ cá thương phẩm. Chọn cá cha mẹ cỡ từ 40 - 100g/con, cá không bị xây xát, dị hình, cá khỏe mạnh, nuôi chung cá đực cái mật độ 1kg cá/2 m2 ao.

Cho cá ăn hàng ngày: cám 60%, bột cá 38% và bột gòn 2% làm chất kết dính. Nấu bột cá, bột lá gòn xong trộn cám vào vừa đặc cho cá ăn. Có thể cho cá ăn một phần lúa mộng. Ngày cho ăn 3-5% so với trọng lượng thân cá, cá tái phát dục ăn 7%.

15 ngày kích thích bằng nước một lần, mỗi lần 1/3 ao. - 30 ngày kiểm tra độ thành thục của cá, 15 ngày kiểm tra cho cá đẻ; cá đực có bụng thon, khi vuốt nhẹ bụng có sẹ trắng sữa. Cá cái bụng to, mềm đều, lỗ sinh dục màu hồng. Cỡ cá 21-30g có 2.900 - 15.000 trứng, 1kg cá cái có 30-40 vạn trứng, tỷ lệ thụ tinh và nở trên 90%.

b. Sản xuất cá giống:
b.1. Sản xuất giống CRĐ tại ao:

Ao được cải tạo và diệt tạp tốt, cho nước vào ao 0,5m, bón phân chuồng để tạo thức ăn tại chỗ cho cá, nước có màu xanh lá chuối non.

Cá cha mẹ có trứng và sẹ tốt, bắt từng cặp cá thả vào ao, mật độ cá thả 5-10 m2 ao. Dâng nước lên 1m, cá rô được nước mới kích thích đẻ trong ao. Hàng ngày cho cá ăn: trùn quế, cám, tấm, ốc nghiền nhỏ, bột cá nấu, phân heo, ... như phần ương cá.

Sản xuất giống CRĐ tại ao, tại hộ gia đình cũng cung cấp được lượng giống CRĐ đáng kể cho yêu cầu nuôi. Có hộ ao 500 m2 thả trên 1,5kg CRĐ cha mẹ cũng được 800kg cá rô thịt.

b.2. Sản xuất giống CRĐ nhân tạo:
  • Cho cá đẻ:

CRĐ cha mẹ, đực cái bắt nhốt trước 2 giờ tiêm, chọn cá đã thành thục sinh dục.

Tiêm HCG liều 3.000-4.000 UI/kg hoặc LHRa 20-30mg/kg cá cái, cá đực tiêm nửa liều cá cái. tiêm vào lưng hoặc gốc xoang ngực.

Cho cá đẻ: Xô, chậu, thau, lu, khạp có đường kính rộng 40-50cm trở lên, cho nước sach vào 10-12cm, bắt từng cặp cá cho vào, hoặc ở bể 3-4kg cá/ m3 nước. Thời gian hiệu ứng thuốc sau khi tiêm 7-16 giờ cá đẻ, cá đẻ trứng ra nở 16-22 giờ tùy nhiệt độ.

  • Ấp trứng cá:

Trứng CRĐ mới đẻ có đường kính 0,4-0,8mm, trứng trương nước 0,8-1,1mm, trứng nổi tự do. Ấp trứng ở xô, thau, chậu có nước sâu 20-30cm, mật độ trứng ấp 3.000 trứng/lít nước , nước tĩnh, thay nước ngày 2 lần, thường xuyên vớt bỏ trứng ung ra.

Sau 60 giờ trứng nở, chuyển cá bột xuống ao ương.

  • Ương cá bột lên cá giống:

Ao mương ương cá giống được dọn sạch cây cỏ, sên vét bớt sình bùn, xảm các hang mội, bón vôi 10kg/100 m2 ao, diệt các địch hại của cá như phần cải tạo ao ương cá khác. phơi nắng ao 2-3 ngày, cho nước vào ao qua lưới lọc kỹ, lưới thật dầy, có thể dùng vải KT.

Bón phân gà, heo đã ủ 10-15g/100 m2 ao hoặc dùng phân vô cơ: đạm và lân superphosphat theo tỷ lệ N/P = 2/1 với lượng 200g m3 nước (nên dùng phân hữu cơ thì màu nước giữ lâu hơn). Bón lót 3 ngày trước khi thả cá ương. Cần kiểm tra nước ao, nếu có địch hại của cá phải được diệt trước khi thả, nếu có bọ gạo phải dùng dầu hỏa có khu và treo đèn ở ao. Cá bột được thả khi nước ao có màu xanh lá chuối non, sao đó 5-10 ngày bón phân một lần tùy màu nước.

Mật độ cá ương 4-6 vạn cá bột /100 (m2) ao, cá bột phải đều cỡ, thời gian ương 45 ngày, cỡ cá đạt 300-400con/kg, tỷ lệ sống ương tốt trên 50%.

Thức ăn cho cá: Mười ngày đầu cho ăn lòng đỏ trứng vịt luộc tán nhuyễn và bột đậu nành pha lõang nấu chín, số lượng một trứng vịt và 10g bột đậu nành cho 1-2 vạn cá bột/ngày. Ngày cho ăn 4 lần. Sau đó cho cá ăn cám 30%, bột đậu nành 30%, bột cá 40%. Khẩu phần thức ăn, khởi điểm cho ăn 100g/vạn cá/ngày, sau đó tùy khả năng bắt mồi của cá mà tăng hoặc giảm khẩu phần cho ăn, nhưng khi cá có cơ quan hô hấp phụ (20 ngày ương) nên tăng lượng thức ăn và phân bón nước ao có màu xanh lá chuối non. Do CRĐ bột giống ăn thức ăn lơ lửng trong nước là chủ yếu, nên thức ăn nấu chín và hòa tan vào trong nước và rải đều trên mặt ao.

Thời gian ương cá cần diệt bọ gạo, không để ếch nhài, nòng nọc và các động vật khác vào ăn cá con.

Cấp thêm nước vào ao khi nước ao hao hụt, nước ao dơ.

Có điều chỉnh lượng thức ăn cần thiết để cá lớn đều, không ăn thịt lẫn nhau.

Theo dõi sự hoạt động của cá, tăng trưởng của cá.

Cá giống cỡ 300 - 500 con/kg được đánh bắt nhẹ nhàng bằng kéo lưới, cho cá vào vèo chứa nếu chuyển đi xa, chuyển nhanh đến nơi nuôi CRĐ thương phẩm. CRĐ giống được chuyển bằng bao nylon, có nước và bơm dưỡng khí, bọc 60x90 chở 1.500 - 3000 con/bọc.

Kỹ thuật nuôi CRĐ thương phẩm[sửa]

a. Nuôi cá tại ao:

Diện tích ao mương nuôi CRĐ từ 100 m2-2.000 m2 mức nước ao sâu trung bình 1,5m, ao nuôi liền với nguồn nước không bị nhiễm các chất độc nông dượccung suốt thời gian nuôi. Ao có bộng cấp và thoát nước càng tốt, tối thiểu có một bộng để lấy nước mới vào, xả nước dơ ra. Bộng phải có lưới bịt chống cá dữ vào ăn cá rô và cá khác vào tranh mồn ăn CRĐ. Để giữ nước cần thiết có thể dùng bao nylon, bao xy măng bịt đầu bộng khi đã cho nước vào ao.

Ao được cải tạo như các ao nuôi cá khác: Don cây cỏ, vét sình bùn, xảm chặt các hang mội, bón vôi và phân chuồng tạo thức ăn tự nhiên cho cá. Đắp bờ cao hơn mức nước cao nhất 0,5m, nơi bờ thấp, nơi xung yếu, đập nước, ... dùng lưới chắn kỹ trước khi nước ngập, lưới cao so với mặt đất mực nước ngập 0,5m, lưới gắn chặt vào đất, có trụ kềm lưới. Thường sử dụng lưới cước để ngăn cá. Cho nước vào ao trước khi thả cá 5-7 ngày, mức nước 1m-1,5m.

a.1.Giống cá nuôi:

Cỡ CRĐ giống: 300 - 500 con.kg. Cá đều cỡ, cá khỏe mạnh, cá không bị xây xát mất nhớt. Cá yếu được nhốt nuôi riêng khi thật khỏe mạnh mới nuôi chung. Mật độ nuôi 10con/ m2 nơi có thức ăn đủ, nước tốt, nuôi tốt mật độ nuôi 20-30-50con/ m2.

Có thể thả ghép cá hường giống 1 con/ 5-10 m2, cá mè trắng 1con/5-10 m2 để tận dụng thức ăn rơi rớt và làm sạch môi trường nước, không được thả cá mè vinh, chép, trê phi tranh mồi ăn của CRĐ, giá bán thấp.

a.2. / Thức ăn cho cá:

Tạo nguồn thức ăn tự nhiên trong vùng nước cho cá.

Có thể sử dụng phân heo, gà, cút cho cá ăn trực tiếp (cần lưu ý không để nước đái heo xuống ao nuôi). Ao 500 - 1000 m2 có thể sử dụng phân heo của 10-20 con làm thức ăn cơ bản cho cá, bổ sung thêm thức ăn nhân tạo. Tùy thực tế xem sức sức ăn của cá mà tăng hoặc giảm lượng thức ăn.

Trước khi thu hoạch 2-3 tháng, ngưng cho cá ăn phân heo, mà cho cá ăn bằng thức ăn chế biến để cá sạch, béo. Thức ăn chế biến 3-5% trọng lượng cá, tùy cá ăn mà tăng giảm.

Cho cá ăn bằng thức ăn chế biến: Bột đầu tôm, phụ phế liệu nhà máy chế biến cá tôm và gia súc, bột cá, ruốc, ốc, cá tạp, bột đậu nành, ... tỷ lệ đạm 30% + cám mịn và xác đậu nành 60% + tấm 7% + bột lá gòn 3% + Vitamin, Premit. hế biến thức ăn: Thức ăn thô (trùn quế, cá tạp, cua, ốc,...) được nghiền nhỏ. Nấu cháo tấm với bột cá cho nhừ, cho bột lá gòn vào, nếu có xác đậu nành nấu riêng, trộn cám và Vitamin vào thức ăn, vừa khô, đặc, dẻo. Có thể cho10% rau muống đã thái nhỏ và nấu mềm nhừ trộn lẫn với thức ăn trên. Thức ăn có độ đạm càng cao cá lớn càng nhanh, từ cá giống lên cá 7-15 con/kg có 4 tháng.

Cho cá ăn: CRĐ lúc còn nhỏ chưa phân đàn, cho cá ăn bằng sàn treo ở đầu ao, cá vào sàn ăn, khoảng 50 - 80 m2 có một sàn. Khi cá lớn, dùng sàn thì cá lớn vào ăn trước, cá nhỏ vào ăn sau, cá lớn không đều, nên rải thức ăn đều ao cho cá ăn để cá lớn nhỏ đều được ăn. Tỷ lệ cho ăn 3-5% trọng lượng cá, ngày cho ăn 1-2 lần. Cho CRĐ ăn thức ăn hoặc lúa, đậu nành rang vàng thơm cho dầu dừa vào cho cá ăn.

a.3. Quản lý chăm sóc cá nuôi:

Giữ môi trường nước nuôi đến màu xanh lá chuối non. Nếu nước có màu sậm và mùi hôi phải thay nước ngay. Trung bình 7-15 ngày nên thay nước một lần, nếu nước ao nuôi vẫn tốt thì khi nước dơ mới thay. Thay nước tốt có lợi cho cá nuôi, song cá tạp vào nhiều tranh mồi ăn của cá nuôi.

Kiểm tra thức ăn của cá dư hay thiếu bằng xem cá có thức ăn trong bụng không và thức ăn còn lại khi cho vào sàn ăn 2 giờ. Nếu ruột cá không có thức ăn, mà thức ăn còn nhiều ở sàn là thức ăn không thích hợp, phải thay đổi thức ăn, hoặc xem cá yếu ăn vì lý do gì: nước dơ thì thay nước, thiếu đạm thì tăng đạm, có đạm mà yếu ăn tăng Vitamin C, Premit vào thức ăn và xem cá có bệnh hay không xử lý kịp thời. Kiểm tra bộng bờ, lưới bộng, lưới bao nơi xung yếu khi mưa lũ. Nơi không có điều kiện bao lưới nơi xung yếu, có thể trồng cây sả dừng nhiều lớp ở bờ này.

Trong thời gian nuôi, cá phân đàn, cá lớn thì lớn nhanh, cá nhỏ chậm lớn vì không được ăn đều. Cần kiểm tra sau 4-6 tháng nuôi, dùng lưới kéo bắt cá lớn để vào ao nuôi vỗ riêng, bán. cá nhỏ còn lại tiếp tục nuôi và cá có phân đàn nuôi riêng.

b/ Nuôi CRĐ ở ruộng lúa, rừng tràm. sông cụt:
b.1. Chuẩn bị nơi nuôi:

Ruộng lúa rừng tràm thì có mương trong, bờ bao quanh, bờ cần cao hơn mực nước cao nhất 0,5m.

Nơi xung yếu: đập có bộng, nước ra vào, lung trũng nối liền với nhau ngăn cách bằng bờ, nơi thấp,... Cần có lưới chắn hoặc trồng sả dầy để hạn chế cá đi.

Nếu nuôi ở kênh rạch, sông cụt, xung quanh có bờ bao, lòng kênh dùng lưới chắn kỹ. Nơi nuôi được cải tạo, nhất là diệt các loài địch hại của CRĐ như cá lóc, lươn, rắn, rái cá,...

b.2. Giống nuôi:

Giống CRĐ nên thả cỡ lớn 200 - 300 con/kg.

Thường nuôi ghép CRĐ với các loại cá khác nuôi ở ruộng lúa: mè vinh, sặt rằn, mè trắng, trôi, chép 70 - 80%, CRĐ 20 - 30%. Mật độ cá nuôi 1-3 con/ m2.

Nuôi ở rừng tràm: CRĐ 0,3-0,7 con/ m2. nuôi ghép với cá sặt rằn, trê vàng, thát lát và cá lóc cùng cỡ 0,5- 1 con / m2 mặt nước.

Nuôi ở sông cụt: CRĐ 5-10 con / m2 và ghép cá sặt rằn, cá hường, mè trắng.

b.3. Quản lý chăm sóc cá nuôi: như ở ao.
c. Thu hoạch cá nuôi:

Cá nuôi 4-5 tháng đạt 60 - 100g/con, 6-9 tháng đạt 100 - 150g/con. Chọn thời điểm thị trường ít các loại cá khác, thu hoạch CRĐ cán được giá. trước khi thu hoạch 2 tháng cần tăng cường cho cá ăn đủ số và chất, thay nước sạch vào ao.

Dùng lưới bắt cá lớn bán, cá nhỏ để lại nuôi tiếp bán. Cần theo dõi hàng ngày ghi chép để rút kinh nghiệm.

Kinh nghiệm sản xuất cá rô đồng giống[sửa]

  • Chọn cá bố mẹ:

Nên chọn cỡ cá 30-70g hoặc lớn hơn, có cơ thể hoàn chỉnh, không bị dị tật, dị hình. Cá có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc từ nguồn cá nuôi trong ao.

Cá đực thường nhỏ hơn cá cái và có thân dài, cá cái có bụng lớn và có tỷ lệ chiều dài thân trên chiều cao lớn hơn cá đực.

  • Nuôi vỗ cá bố mẹ:

Ao nuôi vỗ: Nên dùng ao có diện tích 200-500m2, mức nước sau 0,8-1m.

Mật độ nuôi vỗ cá và tỷ lệ đực cái: Cứ 1m2 ao nuôi vỗ 4-6 con cá bố mẹ. Ghép 2 cá đực với 1 cá cái.

Mùa vụ: Bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 12 năm trước.

  • Cho cá ăn và quản lý ao: Cứ 10kg cá bố mẹ mỗi ngày cho ăn 0,2kg thức ăn hỗn hợp (gồm 25% cám, 25% ruốc và 50% bột cá). Thường xuyên quan sát màu nước và hoạt động của cá. Sau khi nuôi vỗ cá bố mẹ 2 tháng có thể chọn cá cho sinh sản.
  • Cho cá đẻ nhân tạo:

Bể cho cá đẻ: Có thể sử dụng bể xi măng, bể nhựa, lu sành, bể bạt... Tùy số lượng cá cho đẻ nhiều hay ít mà chọn bể có diện tích 10 -20m2.

Giữ mức nước trong bể từ 0.4-0,8m.

  • Chọn cá bố mẹ thành thục: Chọn những cá cái có bụng to, mềm và những con cá đực khỏe mạnh, linh hoạt để cho đẻ.
  • Tiêm kích dục tố: Tiêm cho 1 kg cá cái một trong hai loại kích dục tố với liều lượng như sau: 1 ống LRHa 0,2mg + 2 viên DOM (hoặc Motilium) hoặc 2.000-2.500 đơn vị HCG. Cũng tiêm cho cá đực 1 trong 2 loại thuốc trên nhưng với liều lượng chỉ bằng 1/2 của cá cái. Tiêm thuốc vào gốc vây của ngực cá. Sau khi tiêm kích dục tố thả ghép 2 cá đực với một cá cái vào bể đẻ.

Cá bắt đầu đẻ sau khi tiêm kích dực tố 6-8 giờ. Thời gian đẻ kéo dài 2-3 giờ. Vào chính vụ (tháng 5-7) tỷ lệ cá đẻ đạt 96-100%, tỷ lệ thụ tinh đạt 82-93%, tỷ lệ nở 87-98%.

  • Ấp trứng: Sau khi cá đẻ, trứng được vớt nhẹ nhàng chuyển vào chậu nhựa để ấp. Chậu nhựa có đường kính 50cm, mức nước trong chậu là 15 cm. Mỗi chậu có thể ấp được 50.000 trứng mà không cần phải sục khí.

Sau khi trứng nở thành cá bột được 2-3 ngày tuổi thì chuyển cá bột ra ương ngoài ao.

  • Ương cá bột thành cá giống:

Diện tích ao ương: 500-1000m2

Chuẩn bị ao ương: Tháo cạn ao và phơi đáy. Cứ 100m2 ao ương bón 10kg vôi để diệt tạp, trừ mầm bệnh và bón lót 25-30kg phân chuồng.

Lấy nước vào ao qua lưới lọc trước khi thả cá bột 1-2 ngày. Cá bột được ương trong ao với mật độ 400-600 con/m2.

Cho cá ăn: Trong 10 ngày đầu tiên, cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 5 lòng đỏ trứng vịt bóp nhuyễn và 400g bột đậu nành rang xay nhuyễn. Hòa thức ăn với nước tạt cho cá ăn 2 lần/ngày.

Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20: Cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 300g bột đậu nành, 300g cám và 300g bột cá. Thức ăn được trộn đều và rải khắp ao cho cá ăn 2 lần/ngày.

Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 30: Mỗi ngày cho ăn 600g cám và 600g bột cá/100.000 cá bột. Trộn đều và rải cho cá ăn.

Từ ngày 31 đến ngày thứ 40, mỗi ngày cho ăn 1,5-2kg cám và bột cá/100.000 cá bột. Thành phần thức ăn là 50-70% cám và 30-50% bột cá.

Kết quả:

Sau 50-60 ngày ương, cá đạt trọng lượng trung bình 1,5-2g, tỷ lệ sống đạt 20%.

Xem thêm[sửa]

Chia sẻ lên facebook Chia sẻ lên twitter In trang này