Nghiên cứu lập chương trình môn học tiếng Việt kĩ thuật dành cho sinh viên khối khoa học kĩ thuật và công nghệ

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Tóm tắt[sửa]

Hiện nay, trong quá trình hội nhập và ở giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển và chuẩn hóa tiếng Việt khoa học là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong việc tạo lập các hệ thống thuật ngữ khoa học chuyên ngành tiếng Việt kĩ thuật - công nghệ. Chương trình môn học tiếng Việt kĩ thuật dành cho sinh viên khối khoa học kĩ thuật và công nghệ được xây dựng nhằm đáp ứng các nhu cầu của xã hội về ngôn ngữ trong thời kì đổi mới.

Abstract[sửa]

Nowadays, in the international joining process and in the process of industrialization and modernization of our country, developing and standardizing scientific Vietnamese has a very important role, especially in creating systems of terms of technical and technological Vietnamese. The program of technical Vietnamese for students of technical institutes and universities is created in order to meet social language requirements in the process of innovation.

Nội dung[sửa]

Ngôn ngữ - phương tiện giao tiếp và tư duy quan trọng nhất của loài người - luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người, chịu tác động to lớn và mạnh mẽ của các tiến trình phát triển của xã hội.

Tiếng Việt - ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam - không nằm ngoài phạm vi các qui luật trên. Đã có rất nhiều bài báo, các công trình nghiên cứu về tầm quan trọng, chức năng và sự phát triển của tiếng Việt trên các bình diện khác nhau, đặc biệt là trong văn học và nghệ thuật. Trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật, ngay từ những năm 60 của thế kỉ XX đã có những bài báo đề cập đến chức năng và tầm quan trọng của nó như "Tiếng Việt trong khoa học cơ bản" (Ngụy Như Kontum), "Xây dựng thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt" (Lê Khả Kế), "Dùng tiếng Việt trong các ngành khoa học kĩ thuật ở Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội" (Phạm Đồng Điện) và v.v.

Các công trình nghiên cứu cho thấy ngôn ngữ dân tộc phản ánh rất rõ nét tiến trình phát triển xã hội của dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó. Với một nền khoa học kĩ thuật non trẻ thời ban đầu những năm 60, tiếng Việt trong khoa học kĩ thuật được nghiên cứu và sử dụng mới chỉ ở dạng các thuật ngữ chuyên ngành với một số từ điển thuộc lĩnh vực khoa học kĩ thuật.

Tiếng Việt thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ chỉ bắt đầu phát triển khi đất nước vào giai đoạn mở cửa và thực sự phát triển khi Việt Nam tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các vấn đề về ngôn ngữ thuộc phạm vi khoa học và công nghệ được đề cập còn chưa nhiều. Mặc dù việc định hướng cho giáo dục ngôn ngữ thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ còn chưa rõ nét, song cũng đã có những báo cáo khoa học làm tiền đề cho một giải pháp.

Tiếng Việt ngày càng có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Cho đến nay, đã có rất nhiều nước trên thế giới có cơ sở nghiên cứu giảng dạy tiếng Việt. Ở một số nước như Pháp, Mĩ, Úc, tiếng Việt còn được khuyến khích dạy ở các trường phổ thông. Một số từ điển song ngữ đã được xuất bản ở Nhật, Trung Quốc, Nga, Pháp, Mĩ, Cuba. Một vấn đề hiển thực là môn tiếng Việt có chỗ đứng rất sớm ở một số nước. Ngay từ năm 1949, bộ môn tiếng Việt đã xuất hiện ở khoa Đông Phương, Đại học Bắc Kinh. Ở Pháp, Bộ Giáo dục vẫn tiếp tục công nhận tiếng Việt là một trong những ngoại ngữ mà học sinh có thể chọn ở bậc phổ thông. Ở Trung Quốc, tiếng Việt được dạy và nghiên cứu trong nhiều trường đại học và viện nghiên cứu, không chỉ tập trung ở Bắc Kinh, mà còn ở nhiều tỉnh, nhất là các tỉnh phía Nam. Ở Nhật Bản, học tiếng Việt đang là thời thượng. Hàn Quốc đã dạy tiếng Việt từ 30 - 40 năm nay.

GS.Serge Genest (Đại học Tổng hợp Laval - Canađa) đã nhận xét: "Những thay đổi quan trọng đang diễn ra ở Việt Nam khiến cho ngày càng có nhiều người muốn tiếp xúc với đất nước này. Dù là vì những mục đích trao đổi văn hóa hay kinh tế thì những mối quan hệ muốn phát triển với những thành viên của một nền văn hóa khác khiến ta có một sự hiểu biết, dù là hạn chế về ngôn ngữ của dân chúng nước này." (Avant - Propos, Parlons Vietnamien Gérac, Université Laval 1995). Như vậy, trên bình diện chung, tiếng Việt đã và đang được nghiên cứu, giảng dạy trên phạm vi ngày càng phát triển cả trong và ngoài nước.

Vấn đề tiếng Việt khoa học cho đến nay chủ yếu là do các nhà lãnh đạo hoặc quản lí khối ngành khoa học đề cập tới. Trong những năm 60, các nhà khoa học thuộc khối khoa học kĩ thuật đã sử dụng thuật ngữ "tiếng Việt trong khoa học cơ bản" (Ngụy Như Kontum), "tiếng Việt trong các ngành khoa học kĩ thuật" (Phạm Đồng Điện), "Thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt" (Lê Khả Kế). Trong tuyển tập "một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam" (Nhà xuất bản ĐH và THCN, Hà Nội, 1981), tác giả bài "Lược thuật hội nghị ngôn ngữ học trong các trường đại học" Nguyễn Khắc Thi đã sử dụng thuật ngữ "ngôn ngữ khoa học kĩ thuật" trong bài báo "Tiếp nhận và Việt hóa từ ngữ tiếng nước ngoài" (Trích từ "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ", nxb.KHXH, Hà Nội, 1994).

Trong tất cả các loại từ điển tiếng Việt cho đến năm 2003 chưa có định nghĩa cho thuật ngữ "ngôn ngữ kĩ thuật", "tiếng Việt kĩ thuật", mặc dù đã có định nghĩa cho ngôn ngữ hình thức, ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ điện ảnh. Để dẫn nhập các khái niệm "ngôn ngữ kĩ thuật" và "tiếng Việt kĩ thuật" có hiệu quả, cần xuất phát từ các định nghĩa về ngôn ngữ và tiếng Việt một cách khái quát. Ở đây, tác giả trình bày cụ thể các định nghĩa trong ba loại từ điển điển hình tại các thời kì phát triển xã hội khác nhau:

• Từ điển Việt Nam phổ thông. Đào Văn Tập, nhà sách Vĩnh Bảo - Sài Gòn, 1951.

- Ngôn ngữ : Nói năng (khoa ngôn ngữ)

- Tiếng : 1. Âm thanh phát ra (tiếng động, tiếng đàn)

2. Ngôn ngữ (tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nga)

3. Lời phê bình của công chúng (tiếng hay, tiếng xấu)

• Từ điển tiếng Việt. Văn Tân (chủ biên), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991.

- Ngôn ngữ :

1. Công cụ biểu thị ý nghĩ dùng để giao tiếp giữa người và người, thực hiện nhờ hệ thống những phương tiện âm thanh, từ ngữ và ngữ pháp (Người là giống duy nhất có ngôn ngữ)

2. Cách sử dụng các chức năng nói trên, thường biểu hiện của phẩm chất đạo đức, trình độ văn hóa … (Phải luôn chú ý đến ngôn ngữ cử chỉ)

• Từ điển tiếng Việt. Hoàng Phê (chủ biên), Nxb.KHXH, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2000.

- Ngôn ngữ :

1. Hệ thống ngữ âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau (Tiếng Nga và tiếng Việt là hai ngôn ngữ rất khác nhau).

2. Hệ thống kí hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông báo (Ngôn ngữ điện ảnh. Ngôn ngữ hội họa. Ngôn ngữ của loài ong.)

3. Cách thức, nghệ thuật hay trình độ sử dụng ngôn ngữ có tính chất riêng (Ngôn ngữ Nguyễn Du. Ngôn ngữ trẻ con. Ngôn ngữ báo chí.)

- Tiếng :

1. Cái mà tai có thể nghe được (Tiếng đàn. Tiếng cười.)

2. Âm tiết trong tiếng Việt, là đơn vị thường có nghĩa, dùng trong chuỗi lời nói (Tiếng được, tiếng mất. Thơ lục bát gồm 14 tiếng.)

3. Ngôn ngữ cụ thể nào đó (Tiếng Việt. Biết nhiều thứ tiếng.)

4. Giọng nói riêng của một người hay cách phát âm riêng của một vùng nào đó (Tiếng trầm trầm. Tiếng miền Nam.)

5. Lời nói của một cá nhân nào đó (Có tiếng người.)

6. Lời bàn tán, khen chê, sự đánh giá trong dư luận xã hội (Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Bưởi ngon có tiếng.)

Từ đây, có thể đưa ra các khái niệm sau :

- Ngôn ngữ kĩ thuật:

1. Hệ thống các âm, các từ và các quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng một cộng đồng và cùng một lĩnh vực hoạt động khoa học kĩ thuật và công nghệ dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau. (Tiếng Việt trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công nghệ là ngôn ngữ kĩ thuật.).

2. Hệ thống kí hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông báo (Ngôn ngữ hình học. Ngôn ngữ toán.)/

- Tiếng Việt kĩ thuật: Ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam được sử dụng trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công nghệ (Tiếng Việt kĩ thuật thực hành.).

Đối với Đại học Bách khoa Hà Nội, ngay từ khi thành lập trường, việc dùng tiếng Việt để giảng dạy là đương nhiên. Tuy nhiên, khó khăn là ở chỗ cơ sở của một hệ thống thuật ngữ bằng tiếng Việt gần như không có. Với một nền kĩ thuật còn lạc hậu, các thuật ngữ kĩ thuật ít về số lượng, thiếu khoa học về chất lượng. Phần lớn thuật ngữ kĩ thuật là từ Hán - Việt, thiếu tính chất Việt hoặc là từ tiếng Việt nhưng thiếu độ chính xác và khoa học. Bắt đầu từ năm 1965, trong hoàn cảnh chiến tranh chống Mĩ cứu nước, Đảng và chính phủ đã chủ trương chuyển hướng giáo dục, quyết tâm nâng cao chất lượng giảng dạy, làm cho lí luận đi đôi với thực hành, giáo dục sát với thực tế chiến đấu và sản xuất.

Để thực hiện chủ trương đúng đắn trên và là cơ sở truyền thụ kiến thức về kĩ thuật, cán bộ giảng dạy các bộ môn kĩ thuật đã làm việc hết sức trách nhiệm để xây dựng được một hệ thống thuật ngữ kĩ thuật cơ bản bằng cách dựa vào bản chất từng hiện tượng, tính chất, nguyên tắc và công dụng từng thiết bị để lựa chọn từng thuật ngữ cho phù hợp. Có thể nói rằng trong giai đoạn từ 1965 đến 1975, cán bộ khối khoa học kĩ thuật đã rất thành công trong việc xây dựng một hệ thống thuật ngữ khoa học kĩ thuật bằng tiếng Việt ở mức độ danh từ kĩ thuật. Đây là một bước ngoặt lớn trong sự phát triển xã hội Việt Nam.

Từ 1976 đến 1990 là giai đoạn đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất. Ở giai đoạn này, vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên con đường phát triển được đặt lên hàng đầu trong lĩnh vực ngôn ngữ. Biện pháp chủ yếu là tiếng Việt phải được chuẩn hóa để phục vụ có hiệu quả cho ba cuộc cách mạng và các nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong thời kì tái thiết. Các hội nghị khoa học về ngôn ngữ đã được tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt, vấn đề chuẩn hóa và thống nhất hệ thống thuật ngữ khoa học kĩ thuật được đặc biệt chú ý. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chỉ thị: "Phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và làm cho tiếng Việt ngày càng phát triển, có khả năng thích nghi với sự phát triển của thời đại, đặc biệt là sự phát triển của khoa học và kĩ thuật." (Trích bài phát biểu của GS.Đặng Hữu tại Hội nghị Ngôn ngữ học của ngành đại học lần I vào tháng 1/1978 tại thành phố Hồ Chí Minh). Trong giai đoạn phát triển này, vấn đề nóng bỏng được đặt ra trên phạm vi cả nước là xây dựng, thống nhất và chuẩn hóa hệ thống ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và liên quan là vấn đề mượn từ và âm của các ngôn ngữ khác, trong đó có vấn đề phiên chuyển từ ngữ khoa học nước ngoài. Từ 1991 đến nay là thời kì mở cửa của Việt Nam theo nghị quyết TW2 của Đảng. Tiếp theo là công cuộc Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước. Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, ngôn ngữ dân tộc bước vào giai đoạn mới. Tiếng Việt kĩ thuật không còn dừng lại ở các thuật ngữ riêng biệt mà đã có nhiều văn bản dưới dạng bài dịch từ tiếng Anh, các báo cáo khoa học chuyên ngành. Tuy nhiên, cần phải nói rằng cách hành văn theo phong cách khoa học kĩ thuật và công nghệ của sinh viên, học viên và không ngoại trừ của một số bộ phận cán bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ còn chưa khoa học, chưa trong sáng. Nhiều thuật ngữ khoa học kĩ thuật sử dụng một cách tùy tiện, không theo chuẩn mực nhất định. Các hội nghị về ngôn ngữ ở giai đoạn này được tổ chức khá phong phú về hình thức và nội dung song chưa có những nghiên cứu đầy đủ về ngôn ngữ kĩ thuật và tiếng Việt kĩ thuật, chưa có giải pháp cho giáo dục ngôn ngữ kĩ thuật và tiếng Việt kĩ thuật trong trường phổ thông và đại học.

Theo các tác giả của cuốn từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992 thì trong vòng 5 năm, tính từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế thị trường đã xuất hiện trên 2000 đơn vị từ mới, phần nhiều có nguồn gốc vay mượn từ các tiếng nước ngoài. Theo nghiên cứu của chúng tôi, khoảng 70% đơn vị từ mới trong số đó là các thuật ngữ kĩ thuật và công nghệ. Và cho đến nay thì lượng đơn vị từ mới là các thuật ngữ kĩ thuật và công nghệ ngày càng gia tăng một cách đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Ở đây, việc gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt thuộc lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng. Sự phát triển của xã hội công nghiệp hóa đòi hỏi phát triển chức năng của ngôn ngữ dân tộc và cần tạo ra một sự đồng dạng trong hệ thống giao tiếp của các quốc gia có liên quan, tức là sự tiêu chuẩn hóa trên cơ sở có một thái độ chặt chẽ trong việc lựa chọn các yếu tố, ở đây là của hệ thống tiếng Việt kĩ thuật và sự diễn đạt ngôn ngữ kĩ thuật.

Chúng ta thấy rất rõ rằng chính xã hội công nghiệp, trong điều kiện giao lưu quốc tế rộng rãi giữa các quốc gia đang đem lại cho ngôn ngữ mỗi dân tộc những phát triển mới và những giao thoa mới. Như vậy, vai trò của tiếng Việt kĩ thuật đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước là cực kì to lớn. Tiếng Việt kĩ thuật đóng góp trực tiếp vào những tiến bộ của khoa học và kĩ thuật hiện đại và chịu tác động to lớn của sự phát triển các ngành kĩ thuật hiện đại. Đồng thời, nó làm giàu thêm cho tiếng Việt.

Để có thể lập được một chương trình phù hợp với sinh viên các khối ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ, chúng tôi đã tiến hành lược khảo các sách giáo khoa tiếng Việt và tập làm văn phổ thông bao gồm các sách giáo khoa tiếng Việt và bài tập từ lớp 1 đến lớp 11 và sách giáo khoa tập làm văn các lớp 10, 11, 12. Qua nghiên cứu và khảo sát chúng tôi thấy rằng:

1. Lượng từ và câu có liên quan đến văn hóa khoa học kĩ thuật và công nghệ xuất hiện không đồng đều, không liên tục trong toàn bộ số sách đã nêu. Các sách có sử dụng từ và câu văn bản khoa học kĩ thuật là:

• Tiếng Việt lớp 1 tập 1&2 dưới dạng các từ, câu, bài viết và thơ có liên quan đến cuộc sống hàng ngày như: cái đe, ôtô, canô, xe lu, máy bay, máy cày, nhà máy, trái đất (Tí đi ôtô. Em đi máy bay.)

• Tiếng Việt lớp 1 tập 1, lớp 3 tập 2 dưới dạng bài viết, bài thơ về ngành nghề liên quan đến khoa học kĩ thuật và công nghệ.

2. Kiến thức về văn bản khoa học được giới thiệu trong các sách giáo khoa:

• Tiếng Việt lớp 4 tập 2 dưới dạng giới thiệu một số thuật ngữ và khái niệm về khoa học và kĩ thuật.

• Tiếng Việt lớp 9 dưới dạng giới thiệu sơ lược sự phân loại và đặc điểm chung của văn bản khoa học. Phần luyện tập không có bài tập cho văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ.

• Tiếng Việt lớp 11 ở dạng giới thiệu phong cách ngôn ngữ khoa học một cách ngắn gọn (một tiết học). Phần bài tập có một câu hỏi về so sánh với phong cách ngôn ngữ chính luận.

Như vậy, lượng kiến thức về ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và công nghệ được phân bố trong chương trình phổ thông là không đáng kể, chưa cụ thể và không đồng bộ. Đặc biệt, việc dạy tiếng Việt và soạn thảo, diễn đạt các thể loại văn bản khoa học kĩ thuật hầu như không được đặt ra. Điều này càng khẳng định cần thiết có sự hiện diện của tiếng Việt kĩ thuật trong chương trình đào tạo cao đẳng và đại học tại Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.

Ở giai đoạn đại học đại cương có thể nói là lượng kiến thức về tiếng Việt cần thiết không chỉ đối với sinh viên thuộc khối khoa học xã hội và nhân văn mà còn rất cần đối với sinh viên thuộc khối khoa học kĩ thuật và công nghệ. Việc cập nhật cơ sở tiếng Việt khoa học cho các đối tượng là sinh viên cao đẳng và đại học khối khoa học kĩ thuật và công nghệ là không thể thiếu trong công cuộc Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Các vấn đề của tiếng Việt, đặc biệt là tiếng Việt chuyên ngành kĩ thuật và công nghệ, về câu như ngôn từ, câu sai, chính tả, dấu câu, viết tắt, phương pháp diễn đạt v.v., về văn bản đều chưa được đề cập đến trong chương trình phổ thông và đại học đại cương.

Ngôn ngữ chuyên ngành kĩ thuật cũng như ngôn ngữ phổ thông, được biểu đạt qua ngôn bản, văn bản. Tuy nhiên, điểm khác biệt là ngôn ngữ kĩ thuật còn có thể được biểu đạt qua các công thức, hình vẽ, mô phỏng và đòi hỏi sự rõ ràng, chính xác cao. Nói cách khác, phong cách chức năng khoa học kĩ thuật và công nghệ có những đặc điểm chuyên ngành phân biệt cơ bản với các phong cách chức năng khác.

Cách đây hơn ba thập kỉ, khi nhấn mạnh vai trò và tác dụng của tiếng Việt trong các ngành khoa học kĩ thuật ở Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, GS.Phạm Đồng Điện đã viết: "Qua hơn 10 năm giảng dạy bằng tiếng Việt ở Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, chúng tôi càng thấy rõ việc dùng tiếng Việt có một ý nghĩa rất to lớn và đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo cán bộ kĩ thuật cho tổ quốc, vào việc phát triển khoa học kĩ thuật nước nhà đến những trình độ cao nhất, cũng như vào việc truyền bá khoa học kĩ thuật trong nhân dân. Trong việc xây dựng ngôn ngữ kĩ thuật bằng tiếng Việt, chúng tôi không thấy rõ ngay từ đầu tất cả giá trị của tiếng Việt. Nhưng dần dần cho đến bây giờ, sau 10 năm, nhìn lại chúng tôi mới thấy tự hào về tiếng Việt, mà càng tự hào về tiếng nói chúng ta, chúng tôi càng tự hào về dân tộc chúng ta …." (Trích "Dùng tiếng Việt trong các ngành khoa học kĩ thuật ở Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội", nxb.Hà Nội, 1967).

Ngôn ngữ là một thiết chế đặc biệt của xã hội, gắn bó khăng khít với xã hội, vì vậy, sự phát triển của xã hội làm cho ngôn ngữ phát triển theo. Do đó, việc giữ gìn một ngôn ngữ không đồng nghĩa với việc giữ gìn một công cụ bình thường trong đời sống mà luôn luôn hàm nghĩa phát triển ngôn ngữ đó. Như vậy, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt không thể tách rời phát triển tiếng Việt.

Hiện nay, trong quá trình hội nhập và ở giai đoạn Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước, vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt lại càng cần thiết. Ở đây, việc phát triển và chuẩn hóa tiếng Việt khoa học là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong việc sáng tạo các hệ thống thuật ngữ khoa học chuyên ngành tiếng Việt kĩ thuật và công nghệ (vay mượn từ tiếng Hán, Pháp, Nga, Anh v.v.). Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy cần nhấn mạnh rằng chuẩn hóa ngôn ngữ cần có sự định hướng và tham gia một cách có ý thức của con người vào quá trình phát triển của ngôn ngữ. Tiếng Việt có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục ở các cấp từ phổ thông đến đại học, nâng cao dân trí và truyền bá các kiến thức. Để nắm vững và nâng cao kiến thức về khoa học kĩ thuật, điều tất nhiên là sinh viên cần phải có kiến thức về ngôn ngữ của khoa học kĩ thuật, tức là tiếng Việt khoa học kĩ thuật và công nghệ (gọi tắt là tiếng Việt kĩ thuật).

Chúng tôi thấy rằng sinh viên thuộc khối khoa học kĩ thuật như sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội thường có điểm số thấp về môn tiếng Việt và tập làm văn trong các năm học phổ thông. Với lượng kiến thức về tiếng Việt chuyên ngành khoa học kĩ thuật không đáng kể, sau khi nhập trường, từ năm thứ nhất đến khi ra trường, sinh viên khối khoa học kĩ thuật không được bổ trợ kiến thức về ngôn ngữ kĩ thuật (tiếng Việt kĩ thuật) nên thường sử dụng tiếng Việt để viết báo cáo khoa học hoặc luận văn tốt nghiệp một cách tự phát, tùy tiện, không được rèn luyện theo chuẩn mực của thể loại văn phong, dẫn tới việc biểu đạt nội dung khoa học của báo cáo hoặc luận văn không đạt hiệu quả như nó phải có. Chúng ta có thể tham khảo về cách sử dụng câu của sinh viên khối khoa học kĩ thuật trong một vài ví dụ sau:

• Những thuận lợi của việc tạo xỉ trong lò điện hồ quang đã được chứng minh. Bao gồm các yếu tố sau: …. Sự tăng chiều dài hồ quang yếu tố đó cho phép tăng điện thế hồ quang lớn hơn, bởi vậy đưa đến hiện tại tăng khả năng di chuyển tới bể chứa, với một ít năng lượng kết hợp với tia phát xạ bị mất để bảo vệ vật liệu tới một giới hạn và che những tia phát xạ sáng rực lên và sinh ra nitơ. (Bài tập chuyên ngành).

• Sự phát triển của ALARC - PHONG CÁCH, nó là cần thiết cho sự hiểu biết cơ bản ảnh hưởng của ôxy trong đó nó được ứng dụng trong lò điện hồ quang, nguyên lí trên là nguyên lí nhiệt động học và phản ứng do động lực. (Bài tập dịch).

• Đối với quá trình cháy of than ….. (Bài tập chuyên ngành).

Xuất phát từ những bức xúc về trình độ tiếng Việt của sinh viên khối khoa học kĩ thuật và công nghệ, chương trình Tiếng Việt kĩ thuật đã được soạn thảo ở dạng đề cương. Chương trình tiếng Việt kĩ thuật (3 đơn vị học trình) được biên soạn nhằm giúp sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội tiếp nhận được kiến thức về ngôn ngữ kĩ thuật, các phương pháp và thủ thuật đặt câu chuẩn, tạo văn bản một cách rõ ràng, chính xác, tạo điều kiện cho việc nâng cao kiến thức chuyên môn và tiếp nhận chuyên môn có hiệu quả, giúp sinh viên đạt kết quả trong việc dịch thuật kiến thức chuyên ngành từ một ngoại ngữ sang tiếng mẹ đẻ và ngược lại.

Tài liệu tham khảo[sửa]

1. Tiếng Việt và dạy đại học bằng tiếng Việt, TT, nxb.KHXH, Hà Nội, 1967.

2. Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam. Nguyễn Tài Cẩn (chủ biên). Nxb.ĐH&THCN, Hà Nội, 1981.

3. Nguyễn Kim Thản và những người khác. Tiếng Việt trên đường phát triển. Nxb.KHXH, 1982.

4. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ. TTN, nxb.KHXH, Hà Nội, 1984.

5. Việt ngữ học ở nước ngoài. Lại Văn Toàn (chủ biên), Hà Nội, 1998.

6. Ngôn ngữ và Văn hóa - 900 năm Thăng Long, Hà Nội. Kỉ yếu hội thảo của Hội Ngôn ngữ Hà Nội và khoa Ngôn ngữ ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.

7. Các sách giáo khoa tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 10.

8. Các sách giáo khoa Tập làm văn lớp 10, 11, 12.

9. Các sách giáo khoa và tài liệu tham khảo tiếng Việt thực hành (chương trình dành cho đại học đại cương).

10. Trần Ngọc Thêm. Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Nxb.Giáo dục, 1992.

11. Các nguyên tắc phiên âm tiếng nước ngoài. (Các bài báo, tạp chí 1998, 1999).

12. Các sách bàn về soạn thảo các thể loại văn bản khoa học kĩ thuật.

Bản quyền[sửa]

Đào Hồng Thu

Tuyển tập Công trình Khoa học 45 năm Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội tháng 10/2001.