Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin/P3.VII.4

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

IV. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG[sửa]

Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ lý thuyết không tưởng trở thành một lý luận khoa học. Quá trình thâm nhập lý luận khoa học đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực: từ một nước đến nhiều nước và trở thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh trên phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với nhiều thành tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.

Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử đó đã đặt ra vấn đề về tương lai của chủ nghĩa xã hội. Lời giải đáp chân chính cho câu hỏi này chỉ có thể có được trên cơ sở nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào việc phân tích bối cảnh cụ thể của thời đại ngày nay. 1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực a. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới - Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân dân khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng xã hội mới không có người bóc lột người. Sau Cách mạng Tháng Mười chủ nghĩa xã hội từ học thuyết lý luận đã trở thành hiện thực thực tiễn đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. - Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng một chế độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đó là nội chiến và chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, sự bao vây, cấm vận về kinh tế. Trước tình hình đó, từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác. Đến tháng 3 năm 1921, sau khi nội chiến kết thúc, Đại hội X Đảng Cộng sản Nga đã thông qua việc thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP). V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều kiện mới, việc sử dụng những hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Với việc thực hiện NEP thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những hình thức thích hợp để giúp nước Nga Xôviết nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh, hạn chế sự phát triển tự phát của nền sản xuất nhỏ - mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. V.I Lênin cho rằng, thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản vật chất – kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà nước vô sản có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống các chính sách, công cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp tư bản còn tồn tại trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng, vừa cải tạo bằng phương pháp hòa bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn có thể coi là một trong những phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Sau khi V.I.Lênin qua đời, đường lối đúng đắn này đã không được quán triệt và thực hiện đầy đủ. Chính sách kinh tế mới thực hiện chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, triệu chứng một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh đó, ngoài nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp còn phải xây dựng tiềm lực quốc phòng, đối phó với nguy cơ chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, nhà nước Xôviết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao. Trong thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với thời gian ngắn (chưa đầy 20 năm), trong đó đã mất gần 10 năm nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Do đó, không thể phủ nhận vai trò to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của chủ nghĩa xã hội.

b. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và nhữngthành tựu của nó

Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm các nước: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari,Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung uốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm Cuba). Chính vì vậy, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tại Matxcơva năm 1960 đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người”. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực Cho dù lịch sử có biến động như thế nào, dù có ai cố tình xuyên tạc lịch sử cũng không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn đóng góp chung vào sự phát triển của nhân loại trong thế kỷ XX. - Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đua nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới. Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập. Đó là chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân. - Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. - Chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. - Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới. - Chủ nghĩa xã hội còn có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa. 2. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội xôviết và nguyên nhân của nó a. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái trào. Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sáu nước Đông Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam tư. b. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xôviết Sau khi V.I.Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác dụng, song đã biến dạng thành kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, tập trung cao, từ bỏ hay gần như từ bỏ nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973, các nước tư bản sau khủng hoảng đã tự điều chỉnh để thích nghi với tình hình mới. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn cứ giữ nguyên mô hình phát triển theo kiểu tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, chỉ trú trọng đến phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đặc biệt là chưa đầu tư đúng mức cho phát triển khoa học và công nghệ, dần dần tụt hậu so với các nước tư bản chủ nghĩa. Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý và nói chung là chậm đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội dẫn đến hậu quả tất yếu là sự thua kém rõ rệt trong nhiều lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động so với các nước tư bản chủ nghĩa. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài như đã nói trên chính là nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải xuất phát từ sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà là do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: “ Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ” đã gây tình trạng trì trệ kéo dài và khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ 1986 và kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn năm 1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ chủ trương ban đầu là cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị một cách vô nguyên tắc đã tạo điều kiện cho sự phát triển làn sóng “công khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”, phủ định mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội, gây tâm lý hoang mang cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội. Bằng việc loại bỏ dần những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, nhóm lãnh đạo cải tổ đã chiếm được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước.

Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi thì bằng súng đạn, khi bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, gây ra cuộc chiến tranh lạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây đã sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện ở “tư duy chính trị mới”. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi cách để lái nó theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong là nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân này quyện chặt vào nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho chủ nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do sai lầm củamô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu để thoát khỏi khủng hoảng, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa trên nguyên tắc nào? Bằng phương pháp nào để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Bài học của Liên Xô và Đông Âu có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những người Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới hiện nay. 3. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội

a. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người - Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.

Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của nhân loại. Trong mấy thập kỷ qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng” đồng thời sử dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, các nước tư bản chủ nghĩa đã vượt qua được một số cuộc khủng hoảng và vẫn còn khả năng phát triển. Song dù thế nào, chủ nghĩa tư bản cũng không thể là chế độ tương lai của nhân loại. Bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không thể xóa bỏ được đói nghèo, mù chữ, bất bình đẳng do phân hóa thu nhập và mức sống ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản với những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục mặc dù nó luôn được tô vẽ bằng những lối xưng danh mới như: “phi hệ tư tưởng hóa”, “xã hội tư bản”, “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội kinh tế tri thức hóa”... - Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ tiếp tục phát triển thông qua những cuộc khủng hoảng, những cuộc cải cách để thích ứng và quá trình đó cũng chính là quá trình quá độ sang một xã hội mới. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn minh hậu công nghiệp: kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã hội của sở hữu ngày càng tăng; sự điều tiết của nhà nước đối với kinh tế thị trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân và xã hội của nhà nước tăng lên. Việc giải quyết những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trường ngày càng tốt hơn. Với những đặc điểm trên đây, có thể xem đó là những xã hội quá độ vì nó chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương lai. b. Chủ nghĩa xã hội – tương lai của xã hội loài người - Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội Sau sự kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ra sức tuyên truyền rêu rao về “cái chết của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin”. Song sự phân tích ở các phần trên cho thấy, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội thực tế chứ không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới. Tương lai của loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay đổi,loài người vẫn ở trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết. - Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có tác động mạnh mẽ đến các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhưng với sự kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, các nước này không những đứng vững mà còn thực hiện đổi mới tương đối thành công. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của mình, Trung Quốc và Việt Nam đã từng bước tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thích hợp. Tuy hai nước có những sự khác biệt về quy mô, vị trí trên trường quốc tế, về văn hóa dân tộc nhưng sự đổi mới, mở cửa của Trung Quốc và Việt Nam cũng có nhiều nét tương đồng với nhau: - Từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam). Quá trình đổi mới của hai nước đều thực hiện đa dạng hóa sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung Quốc) hoặc công hữu là nền tảng (Việt Nam); kinh tế nhà nước là chủ đạo, sở hữu cổ phần được xem là hình thức chủ yếu của chế độ công hữu (Trung Quốc) hoặc doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức kinh tế phổ biến (Việt Nam); đa dạng hóa hình thức phân phối, coi trọng phân phối theo lao động, đảm bảo quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; giá cả, tỷ giá, lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết của nhà nước; phát triển đồng bộ các loại thị trường từ thị trường hàng hóa dịch vụ đến thị trường chứng khoán; thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn, xóa đói giảm nghèo, giữ gìn môi trường...

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp; gia tăng hiệu lực điều tiết vĩ mô; gia tăng sự phân quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ, đặc biệt là ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các cấp, của công luận, của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội, thực hiện cải cách hành chính... - Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng bao gồm các hội nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, xã hội...khuyến khích sự phát triển của các tổ chức này hướng vào các mục đích như từ thiện, cứu trợ... - Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, WTO, các tổ chức khu vực như Hiệp hội ASEAN,Đông Á và trở thành thành viên tích cực của các tổ chức này. - Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo của Đảng cũng dần được đổi mới theo hướng dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Trung Quốc và Việt Nam. Công cuộc cải cách của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Những định hướng phát triển của Trung Quốc và Việt Nam đều tôn trọng những giá trị tiến bộ của nhân loại, nghiên cứu và ứng dụng chúng phù hợp với điều kiện cụ thể trên cơ sở những giá trị nhân đạo cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Sự tiến triển thực tế của những cuộc cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam sẽ góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn con đường đổi mới chủ nghĩa xã hội. - Đã xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội Trong tình hình chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào thì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là khu vực Mỹ Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và phát triển lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các Chính phủ cánh tả tiến bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước Mỹ Latinh, trong đó có nhiều nước tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 2005, Tổng thống Vênêxuêla Hugo Chavez nhiều lần công khai tuyên bố mục tiêu của cách mạng Vênêxuêla là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tái đắc cử trong kỳ bầu cử tổng thống năm 2006, Tổng thống Hugo Chavez một lần nữa khẳng định: Vênêxuêla sẽ tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI.Tổng thống Bôlivia Êvô Môralét nói rằng: chủ nghĩa xã hội là mơ ước của các dân tộc Mỹ Latinh. Êcuađo và Nicarago cũng tuyên bố lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội.Sự xuất hiện của “Chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI” còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, đánh giá nhưng đó là những biểu hiện về sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội thế giới. Đó cũng chính là bằng chứng chứng minh cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội.

Tóm lại, từ diễn biến của tình hình thế giới từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến nay có thể khẳng định: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại nhất định sẽ có bước phát triển mới.Theo quy luật phát triển khách quan của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.


← Mục lục

Phần I: thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin

  1. Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật
  2. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
  3. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
  4. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
  5. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng
  • Chương III: Chủ nghĩa duy vật lịch sử
  1. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
  2. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
  3. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
  4. Hình thái kinh tế-xã hội và quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
  5. Vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
  6. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

Phần II: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

  1. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản
  2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản
  3. Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản - Tích lũy tư bản
  4. Quá trình lưu thông tư bản và khủng hoảng kinh tế
  5. Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
  • Chương VI: Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa Tư bản độc quyền Nhà nước
  1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền
  2. Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước
  3. Đánh giá chung về vai trò và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa Tư bản

Phần III: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chủ nghĩa xã hội

  • Mở đầu
  • Chương VII: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa
  1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
  2. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
  3. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
  4. Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng
  • Chương VIII: Những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
  1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
  2. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
  3. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.