Sách:Điện từ sinh học/Các phép đo thông số điện của mô sinh học

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Các phương pháp đo thông số điện bên trong của mô sinh học

Sự chia nhỏ thứ ba của điện từ sịnh học bàn về các phương pháp đo thông số điện bên trong của mô sinh học. Phần VIII bàn một cách ngắn gọn về phương pháp đo trở kháng mô và đáp ứng điện da.

Phương pháp đo trở kháng mô lần đầu tiên được ứng dụng để ghi lại sự biến đổi thể tích trở kháng. Ứng dụng thành công nhất của công nghệ này đo trở kháng tim, nó có thể được sử dụng cho đo lường không xâm lấn của lượng đột quỵ. Phép ghi lại sự thây đổi thể tích trở kháng cũng có ứng dụng khác, ví dụ, để đo lượng chất lỏng trong khoang màng phổi hoặc dò tìm chứng huyết khối trong tĩnh mạch của chân. Việc ghi lại sự thay đổi thể tích trở kháng cũng đã từng được sử dụng thành công trong việc dò họat động dạ dày của trẻ nhỏ.

Một ứng dụng mới của công nghệ trở kháng là chụp cắt lớp trở kháng, một cố gắng để chụp ảnh độ dẫn điện của cơ thể người. Khác với chụp cắt lớp điện toán (CT) và chụp cộng hưởng từ (NMRI), chụp cắt lớp trở kháng không đựợc thành công trong lâm sàng. Lý do là độ phân giải của phép đo trở kháng, ngay cả trong hai kích thước nơi mà hầu hết công việc được cho phép không được tốt.

Đáp ứng điện ra có một ứng dụng rộng rãi trong sinh lý học. Trong chủ đề này có một body of literature lớn. Mục đích của việc hoàn thành cuốn sách này, đáp ứng điện da được bàn một cách ngắn gọn

Phần VIII cũng bao gồm một vấn đề ứng dụng về thông số từ của mô được đo: ví dụ phép ghi biến đổi thể tích độ cảm từ và chụp cộng hưởng từ, NMRI. Tuy nhiên ở đây không bao gồm việc tránh tăng số lượng trang. Nó cũng nên được chú ý rằng điều đầu tiên hai công nghệ không được sử dụng trong lâm sàng, và thứ hai, cái mà bao gồm thông số từ của mô trên một mức hạt nhân, nằm ngoài phạm vi của cuốn sách. Bởi vì NMRI đã từng được ứng dụng thành công trong lâm sàng nên cũng có nhiều bài về vấn đề này.


Trang trước Các phép đo thông số điện của mô sinh học Trang tiếp

Liên kết đến đây