Phụ nữ

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
Tập tin:Woman Montage (1).jpg
Hình ảnh 20 phụ nữ trên thế giới
Tập tin:Symbol venus.svg
Biểu tượng của sinh vật cái trong sinh học và nữ giới, hình chiếc gương và chiếc lược. Đây cũng là biểu tượng của Sao Kim trong chiêm tinh học, của thần Vệ nữ trong thần thoại La Mã và của đồng trong thuật giả kim.

Phụ nữ hay đàn bà là từ chỉ giống cái của loài người. Phụ nữ thường được dùng để chỉ một người trưởng thành, còn con gái thường được dùng chỉ đến trẻ gái nhỏ hay mới lớn. Bên cạnh đó từ phụ nữ, đôi khi dùng để chỉ đến một con người giống cái, bất kể tuổi tác, như là trong nhóm từ "quyền phụ nữ".

Khái niệm[sửa]

Nữ giới là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay toàn bộ những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc điểm giới tính được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ hoàn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường.

Nữ giới, phân biệt với nam giới, là một trong hai giới tính truyền thống, cơ bản và đặc trưng của loài người.

Nhìn theo khía cạnh sinh học, nữ giới chỉ những người thuộc giống cái.

Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều từ gần nghĩa với "nữ giới", đều chỉ một nhóm đối tượng thuộc nữ giới nhưng mang tính phân loại cao hơn. Một số từ tiêu biểu hay gặp là đàn bà, phụ nữ, con gái... Cách hiểu những từ này còn rất khác nhau, do đó, cần phải chuẩn hóa chúng để tránh những thành kiến, những hiểu lầm hay những sai sót trong việc sử dụng.[cần dẫn nguồn]

Phụ nữ chỉ một, một nhóm hay tất cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc được cho là đã trưởng thành về mặt xã hội. Nó cho thấy một cái nhìn ít nhất là trung lập, hoặc thể hiện thiện cảm, sự trân trọng nhất định từ phía người sử dụng. Nó đề cập đến, hoặc hướng người ta đến những mặt tốt, hoặc ít nhất là không xấu, đến những giá trị, những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực từ những nữ giới này.[cần dẫn nguồn]

Đàn bà có một định nghĩa tương tự, nhưng bản thân nó đã không thể hiện sự trang trọng. Nó cho một cái nhìn bao hàm nhìều mặt, cả về khía cạnh xã hội cũng như bản chất sinh học... Thông thường, chỉ nên sử dụng từ "đàn bà" khi cần một cái nhìn thật sự trung lập, hoặc muốn thể hiện một thái độ thiếu thiện cảm, một chút kỳ thị đối với nữ giới đó, bởi nó khiến người ta liên tưởng đến những mặt xấu, hoặc được cho là xấu, mang đặc trưng và thường gặp ở nữ giới (Ví dụ như lắm mồm, ích kỷ, nông cạn...) Nếu so sánh hai từ "phụ nữ" và "đàn bà" thì "đàn bà" được cho là suồng sã hơn, thô thiển hơn, tiêu cực hơn. Khi người Việt nói về một người đàn ông: Tay này "đàn bà" lắm thì có nghĩa chê người đó tính khí nhỏ nhen.[cần dẫn nguồn]

Con gái chỉ những nữ giới trẻ, thường ở độ tuổi vị thành niên và thanh niên, những người đã có biểu hiện rõ ràng của giới tính nữ (nhỏ hơn nữa thì được gọi là bé gái) nhưng chưa được cho là trưởng thành (Có những cái nhìn khắt khe đòi hỏi một phụ nữ phải trưởng thành trên nhiều phương diện như tâm lý, sinh lý, vị trí trong gia đình, vị trí trong xã hội...)

Không có ranh giới rõ rệt giữa "con gái" với "phụ nữ" hay "đàn bà". Có những nữ giới mặc dù chưa kết hôn, chưa quan hệ tình dục... nhưng có nhiều biểu hiện tầm thường vẫn bị coi là "đàn bà"; mặt khác, cũng có những nữ giới đã trưởng thành nhưng dưới một cái nhìn cao hơn, vẫn được cho là ngây thơ, trong sáng... và được gọi là "cô gái".

Ngoài ra, còn một số từ khác để chỉ đối tượng nữ giới, như "mụ", "thị"... nhưng ít được sử dụng và thể hiện thành kiến cá nhân.

Tóm lại, thật khó để đưa ra những định nghĩa chính xác, và cũng không nên đưa ra những định nghĩa chính xác một cách quá máy móc. Chúng ta sử dụng các từ này thường dựa trên đánh giá của xã hội và đánh giá của bản thân về một hay nhiều đối tượng nữ giới cụ thể. Trong mỗi trường hợp nhất định, nên cân nhắc chọn cái nhìn nào thích hợp, từ phía xã hội hay từ phía bản thân, hay kết hợp cả hai cái nhìn đó.

Sinh học và giới tính[sửa]

Tập tin:Sky spectral karyotype.png
Phổ karyotype của một người nữ. kết hợp XX được hình thành ở tuần thứ 23 của thai kỳ.

Về sinh học, cơ quan sinh dục nữ gồm trong hệ sinh sản, theo đó các đặc điểm sinh dục thứ hai có nhiệm vụ nuôi dưỡng đứa trẻ hay, trong một số nền văn hoá, thu hút nam giới. Buồng trứng, ngoài chức năng thường xuyên tạo hormone, còn tạo ra các giao tử nữ được gọi là trứng mà, khi được thụ tinh bởi các giao tử nam (tinh trùng), hình thành nên các cá nhân di truyền mới. Buồng trứng là một cơ quan có mô để bảo vệ và nuôi dưỡng bào thai đang phát triển và cơ để đẩy khi sinh đẻ. Âm đạo được sử dụng trong giao cấu và sinh đẻ (dù từ âm đạo thường được dùng một cách thông tục và không chính xác để chỉ âm hộ hay cơ quan sinh dục ngoài của phụ nữ, vốn cũng gồm môi âm hộ, âm vật, và niệu đạo nữ). Ngực phát triển từ tuyến mồ hôi để tạo sữa, một chất dinh dưỡng là đặc điểm riêng có của loài có vú, cùng với việc sinh con. Ở phụ nữ trưởng thành, vú nói chung có kích thước lớn hơn hầu hết các loài động vật có vú khác, kích thước lớn này, không cần thiết cho việc tạo sữa, có lẽ ít nhất một phần là kết quả của sự chọn lọc giới tính. (Về những điều khác biệt khác nữa về thể chất giữa nam và nữ, xem Nam.)

Một mức độ mất cân bằng hormone của người mẹ và một số loại hoá chất (hay thuốc) có thể làm thay đổi những đặc điểm giới tính thứ hai của bào thai. Đa số phụ nữ có karyotype 46,XX, nhưng khoảng một phần ngàn sẽ là 47,XXX, và một trên 2500 sẽ là 45,X. Nó trái ngược với karotype đặc trưng nam 46,XY; vì thế, X và các nhiễm sắc thể Y được gọi là nữ và nam. Bởi con người được thừa hưởng mitochondrial DNA chỉ từ tế bào trứng của mẹ, các cuộc nghiên cứu gene của phụ nữ thường có khuynh hướng tập trung vào mitochondrial DNA.

Các yếu tố sinh học không phải là các yếu tố đủ để quyết định liệu một người tự coi mình là một phụ nữ hay bị coi là một phụ nữ. Các cá nhân chuyển giới tính (Intersex), có lẫn các đặc điểm thể hình và/hay gene, có thể sử dụng tiêu chí khác trong việc xác định giới tính rõ ràng. Cũng có các phụ nữ lưỡng giới tính hay chuyển giới tính, những người khi sinh hay về thân thể được cho là nam giới lúc sinh, nhưng được xác định là nữ; có những định nghĩa xã hội, pháp lý và cá nhân khác nhau về các vấn đề đó. (Xem transwoman.)

Dù có ít nữ được sinh ra hơn nam (tỷ lệ khoảng 1:1.05), vì có tuổi thọ dài hơn chỉ có 81 nam giới ở hay trên độ tuổi 60 cho mỗi 100 phụ nữ ở cùng lứa tuổi. Phụ nữ thường có tuổi thọ dài hơn nam giới.[1] Điều này bởi sự tổng hợp các yếu tố: gene (có nhiều và đa dạng gene hiện diện trong các nhiếm sắc thể giới tính ở phụ nữ); xã hội học (như không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự ở hầu hết các quốc gia); các lựa chọn liên quan tới sức khoẻ (như tự tử hay hút thuốc lá, uống rượu); sự hiện diện của estrogen hormone nữ, vốn có hiệu ứng bảo vệ tim. và joêik ứmg kích thích tố nam cao ở nam giới. Trong tổng dân số nhân loại, có 101.3 nam trên mỗi 100 nữ (nguồn: 2001 World Almanac).

Đa số phụ nữ trải qua quá trình có kinh nguyệt và sau đó có thể mang thai sinh đẻ.[2] Điều này nói chung đòi hỏi sự thụ tinh bên trong của trứng với tinh trùng của một người đàn ông qua quan hệ tình dục, dù thụ tinh nhân tạo hay cấy tinh trùng đã thụ tinh sẵn cũng có thể được thực hiện (xem kỹ thuật sinh sản). Việc nghiên cứu sinh sản nữ và các cơ quan sinh sản được gọi là phụ khoa.

Có một số bệnh chủ yếu ảnh hưởng tới nữ, như lupus. Tương tự, có một số bệnh liên quan tới giới tính thường xuyên hay chỉ xảy ra với nữ giới, ví dụ ung thư vú, ung thư cổ tử cung, hay ung thư buồng trứng. Phụ nữ và nam giới có thể có các triệu chứng bệnh khác nhau và có thể phản ứng khác nhau với việc điều trị y tế. Lĩnh vực này của nghiên cứu y học được gọi là y khoa dựa trên giới tính.

Trong giai đoạn đầu phát triển của bào thai, thai nhi ở cả hai giới tính thể hiện trung tính; việc sản sinh các hormone là cái làm thay đổi vẻ ngoài về hình thể của nam và nữ. Như trong trường hợp không có hai giới tính, các loài như vậy sinh sản vô tính, vẻ ngoài trung tính gần với nữ hơn là nam.

Văn hoá và vai trò giới tính[sửa]

Tập tin:Weaving profile.jpg
Một phụ nữ đang dệt. Dệt theo lịch sử là một công việc của phụ nữ ở một số nền văn hoá.

Tập tin:Roundhouse wipers.jpg
Những phụ nữ làm công việc vệ sinh trong xưởng xe lửa đang ăn trưa, Chicago and North Western Railway, 1942. Trong Thế chiến II, phụ nữ đảm nhiệm nhiều công việc vốn trước kia chỉ dành cho đàn ông.

Xem chi tiết: Vai trò giới tính

Trong nhiều nền văn hoá tiền sử, phụ nữ có một vai trò văn hoá riêng biệt. Trong các xã hội săn bắn hái lượm, phụ nữ nói chung hái lượm các loại cây lương thực, bắt các loại thú nhỏ, câu cá làm thức ăn và học sử dụng các sản phẩm sữa, trong khi đàn ông săn thịt từ các loại thú lớn.[3]

Trong lịch sử gần đây hơn, các vai trò giới của phụ nữ đã thay đổi rất lớn. Theo truyền thống, phụ nữ tầng lớp trung lưu chủ yếu tham gia vào các trách nhiệm trong gia đình có nhấn mạnh tới việc chăm sóc trẻ em[4]. Với phụ nữ nghèo hơn, đặc biệt là phụ nữ thuộc tầng lớp lao động, điều này vẫn thường chỉ là một hoàn cảnh lý tưởng, bởi nhu cầu kinh tế buộc họ phải kiếm việc bên ngoài gia đình. Tuy nhiên, những công việc họ có thể làm thường bị trả lương thấp hơn so với nam giới[5].

Khi những thay đổi trong thị trường lao động cho phụ nữ diễn ra, những công việc họ có thể đảm nhiệm thay đổi từ chỉ những công việc "bẩn thỉu" kéo dài trong các nhà máy như các "lao công", trở thành các công việc văn phòng được tôn trọng nhiều hơn nơi cần các lao động có trình độ, sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động Hoa Kỳ đã tăng từ 6% năm 1900 lên 23% năm 1923. Những thay đổi đó trong lực lượng lao động đã dẫn tới những thay đổi trong thái độ của phụ nữ tại nơi làm việc, cho phép những sự phát triển khiến phụ nữ trở nên có định hướng về nghề nghiệp và giáo dục lớn hơn.[6]

Các phong trào ủng hộ cơ hội bình đẳng cho cả hai giới và quyền bình đẳng không cần biết tới giới tính. Thông qua một sự phối hợp những thay đổi về kinh tế và những nỗ lực của phong trào nữ quyền, trong những thập kỷ gần đây phụ nữ ở hầu hết các xã hội đã có quyền tiếp cận với nghề nghiệp bên ngoài công việc chăm sóc gia đình truyền thống.

Nhiều nhà quan sát, gồm cả các nhóm nữ quyền, vẫn cho rằng phụ nữ trong ngành công nghiệp thương mại phải đối mặt với sự bất bình đẳng trong thăng tiến nghề nghiệp[7]/.

Giáo dục và việc làm[sửa]

Các quốc gia OECD[sửa]

  • Giáo dục

Sự khác biệt giới tính tại các quốc gia Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã được giảm bớt trong 30 năm qua. Phụ nữ trẻ ngày nay hầu hết đều có trình độ giáo dục cấp ba: tại 19 trong số 30 nước thuộc OECD, số phụ nữ trong độ tuổi 25 tới 34 đã hoàn thành giáo dục cấp ba lớn gấp hai lần số phụ nữ trong độ tuổi 55 tới 64. Tại 21 trong 21 quốc gia OECD với dữ liệu có thể so sánh, số lượng phụ nữ tốt nghiệp các chương trình cấp đại học tương đương hay vượt quá số lượng nam giới. Các cô bé 15 tuổi thường có nhiều dự định nghề nghiệp hơn các cậu bé cùng độ tuổi.[8]

Tuy phụ nữ chiếm hơn một nửa số người tốt nghiệp đại học ở nhiều quốc gia OECD, họ chỉ nhận được 30% bằng cấp giáo dục cấp ba được trao về khoa học và kỹ sư, và phụ nữ chỉ chiếm 25% tới 35% số nhà nghiên cứu tại hầu hết các quốc gia OECD.Bởi vì họ vốn không có sự tư duy nhạy bén so với nam giới.[9]

Xem thêm[sửa]

Chú thích[sửa]

  1. “Why is life expectancy longer for women than it is for men?”. Scientific American (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  2. Menarche and menstruation are absent in many of the intersex and transgender conditions mentioned above and also in primary amenorrhea.
  3. Sách Lịch sử 5
  4. “VAI TRÒ PHỤ NỮ TRONG QUAN HỆ XÃ HỘI”.
  5. “Bị trả lương ít hơn vì là phụ nữ”. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  6. “VỊ TRÍ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG XU THẾ HỘI NHẬP”.
  7. Luận văn về Bất bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
  8. Education Levels Rising in OECD Countries but Low Attainment Still Hampers Some, Organisation for Economic Co-operation and Development, Publication Date: 14/09/2004. Truy cập December 2006.
  9. Women in Scientific Careers: Unleashing the Potential, Organisation for Economic Co-operation and Development, ISBN 92-64-02537-5, Publication Date: 20/11/2006. Truy cập December 2006.

Đọc thêm[sửa]

  • Chafe, William H., "The American Woman: Her Changing Social, Economic, And Political Roles, 1920-1970", Oxford University Press, 1972. ISBN 0-19-501785-4
  • Roget’s II: The New Thesaurus, (Boston: Houghton Mifflin, 2003 3rd edition) ISBN 0-618-25414-5
  • McWhorter, John. 'The Uses of Ugliness', The New Republic Online, ngày 31 tháng 1 năm 2002. Truy cập May 11 2005 ["bitch" as an affectionate term]
  • McWhorter, John. Authentically Black: Essays for the Black Silent Majority (New York: Gotham, 2003) ISBN 1-59240-001-9 [casual use of "bitch" in ebonics]
  • Routledge international encyclopedia of women, 4 vls., ed. by Cheris Kramarae and Dale Spender, Routledge 2000
  • Women in world history: a biographical encyclopedia, 17 vls., ed. by Anne Commire, Waterford, Conn. [etc.]: Yorkin Publ. [etc.], 1999 - 2002
  • "Người Phụ Nữ Qua Nhân Tướng Học & Văn Học Dân Gian"-Lương Trọng Nhàn- Nhà Xuất Bản Hồng Đức.

Liên kết ngoài[sửa]

Lịch sử
Tôn giáo

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.