Động vật thân mềm

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
  1. đổi

Ngành Thân mềm (còn gọi là nhuyễn thể hay thân nhuyễn, danh pháp khoa học: Mollusca) là một ngành trong phân loại sinh học có các đặc điểm như cơ thể mềm, có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ, tùy lối sống mà vỏ và cấu tạo cơ thể có thể thay đổi.

Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, , ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc. Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ. Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà. Có độ đa dạng cao, không chỉ về kích thước mà còn về cấu trúc giải phẫu học, bên cạnh sự đa dạng về ứng xử và môi trường sống. Ngành này được chia thành 9 hoặc 10 lớp, trong đó 2 lớp tuyệt chủng hoàn toàn. Cephalopoda như mực, mực nang bạch tuộc là các nhóm có thần kinh cao cấp trong tất cả các loài động vật không xương sống, và mực khổng lồ hay mực ống khổng lồ là những loài động vật không xương sống lớn nhất đã được biết đến. Động vật chân bụng (ốc sên ốc) là nhóm có số loài nhiều nhất đã được phân loại, chúng chiếm khoảng 80% trong tổng số loài động vật thân mềm. Nghiên cứu khoa học về động vật thân mềm được gọi là nhuyễn thể học.[1]

Phân loại[sửa]

Bảng phân loại này gồm có 8 lớp thân mềm hiện hữu và 2 lớp đã tuyệt chủng.

Lớp Hình thái đặc trưng Số loài hiện hữu Phân bố
Caudofoveata Những loài thân mềm dạng giun (Các loài thuộc nhóm này không có chân và cũng không có rãnh bụng. Tất cả các loài đều có một lưỡi sừng và một đôi mang lược, sống hoan toàn ở biển vùi mình trong đáy bùn) 120 200 đến 3.000m dưới đáy biển
Aplacophora (Không vỏ) solenogasters, những loài thân mềm dạng giun 200 200 đến 3.000m dưới đáy biển
Polyplacophora (Nhiều tấm vỏ) Ốc song kinh (chitons) 1,000 vùng đá thuỷ triều và đáy biển
Monoplacophora (Vỏ một tấm) dạng ốc nón (limpet-like) 31 1.800 đến 7.000m dưới đáy biển, có loài ở độ sâu 200m
Gastropoda (Chân bụng) bào ngư, ốc nón (limpet), ốc xà cừ (conch), sên biển, thỏ biển, bướm biển, ốc sên, ốc nước ngọt, sên trần 70,000 biển, nước ngọt, trên cạn
Cephalopoda (Chân đầu) mực ống, bạch tuộc, mực nang, ốc anh vũ 900 biển
Bivalvia (Hai mảnh vỏ) hến, hàu, , trai 20,000 biển, nước ngọt
Scaphopoda ốc ngà voi 500 sống ở biển độ sâu từ 6m đến 7.000m
Rostroconchia hoá thạch; dạng vỏ 2 tấm đã tuyệt chủng biển
Helcionelloida hoá thạch; dạng ốc (snail-like) đã tuyệt chủng biển

Đa dạng[sửa]

Tập tin:Cypraea chinensis with partially extended mantle.jpg
Khoảng 80% loài động vật thân mềm được biết đến là lớp có cấu tạo co thể mềm nhất và cũng là nhiều nhất trên thế giới (Ốc sên biển), bao gồm con Cowry trong ảnh (một loài sên biểnl).[2]

Ước tính số loài còn sống đã miêu tả được chấp nhận trong nhóm động vật thân mềm dao động từ 50.000 đến tối đa 120.000.[3] Năm 1969 David Nicol đưa ra con số phỏng đoán 107.000 trong đó có khoảng 12.000 loài chân bụng nước ngọt và 35.000 loài trên cạn.Thân mềm hai mảnh vỏ[3](Bivalvia) có thể chiếm khoảng 14% và 5 lớp khác chiếm ít hơn 2% tổng số các loài động vật thân mềm còn sinh tồn[3].Năm 2009, Chapman ước tính số loài còn sinh tồn đã được miêu tả là 85.000.[3] Haszprunar năm 2001 ước tính khoảng 93.000 loài đã được đặt tên, tương đương 23% tất cả sinh vật biển đã được đặt tên.[4] Động vật thân mềm là nhóm xếp thứ 2 sau arthropoda (chân khờp) về số lượng loài còn sinh tồn[2]—tuy ít hơn nhiều so với arthropoda (1.113.000 loài), nhưng vẫn dẫn trước chordata (52.000 loài).[5] Ước tính rằng có khoảng 200.000 loài còn sinh tồn,[3][6] and 70,000 loài hóa thạch, mặc dù số loài tổng cộng của động vật thân mềm đã từng tồn tại, dù có được hóa thạch hay không, phải lớn hơn nhiều so với số lượng còn sinh tồn ngày nay.[7]

Động vật thân mềm có nhiều hình dáng hơn so với bất kỳ nhóm nào khác trong ngành động vật. Chúng bao gồm ốc sên, ốc và các động vật chân bụng khác; nghêu và các thân mềm hai mảnh vỏ khác; mực và các động vật chân đầu khác khác; và các phân nhóm ít được biết đến hơn nhưng vẫn riêng biệt. Phần lớn các loài vẫn sống trong các đại dương, từ vùng ven bờ đến vùng biển thẳm, nhưng một số là thành phần quan trọng trong các hệ sinh thái nước ngọt và trên cạn. Động vật thân mềm cực kỳ đa dạng tại các vùng nhiệt đới ôn đới, nhưng cũng có thể được tìm thấy ở tất cả các vĩ độ. Khoảng 80% trong số các loài động vật thân mềm đã được biết đến là động vật chân bụng.[2] Động vật chân đầu như mực, bạch tuộc là những động vật có hệ thần kinh phát triển nhất trong số các động vật không xương sống.[8] Mực khổng lồ, cho đến gần đây vẫn chưa được quan sát còn sinh tồn ở dạng cá thể trưởng thành,[9] là một trong những động vật không xương sống lớn nhất, nhưng mẫu vật được bắt gần đây của loài Mesonychoteuthis hamiltoni dài 10m và nặng 500 kg có thể đã vượt qua loài mực khổng lồ.[10]

Động vật thân mềm nước ngọt và trên đất liền thuộc nhóm dễ bị tổn thương. Những ước tính về số loài động vật thân mềm không sống trong biển thì nằm tương đối biến thiên, một phần là do nhiều khu vực không được khảo sát kỹ lưỡng. Ngoài ra còn có sự thiếu hụt các chuyên gia có thể xác định tất cả các loài động vật trong bất kỳ một khu vực nào đến cấp loài. Tuy nhiên, năm 2004 Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa bao gồm gần 2.000 loài động vật thân mềm sống trong môi trường nước ngọt và đất liền bị đe dọa. Để so sánh, phần lớn các loài động vật thân mềm sống ở biển và đại dương, nhưng chỉ có 41 trong số này có mặt trong Sách Đỏ năm 2004. Khoảng 42% các loài đã tuyệt chủng được ghi nhận từ năm 1500 là động vật thân mềm, bao gồm gần như toàn bộ các loài không sống trong biển.[11] lỗi có 3 lần chú thích [3] nên sẽ không có ý nghĩa nữa!

Hình ảnh[sửa]

Chú thích[sửa]

  1. Little, L., Fowler, H.W., Coulson, J., and Onions, C.T., ed (1964). "Malacology". Shorter Oxford English Dictionary. Oxford University press.
  2. 2,0 2,1 2,2 edited by Winston F. Ponder, David R. Lindberg. (2008). Ponder, W.F. and Lindberg, D.R.. ed. Phylogeny and Evolution of the Mollusca. Berkeley: University of California Press. tr. 481. ISBN 978-0-520-25092-5.
  3. 3,0 3,1 3,2 3,3 3,4 3,5 Chapman, A.D. (2009). Numbers of Living Species in Australia and the World, 2nd edition. Australian Biological Resources Study, Canberra. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2010. ISBN 978-0-642-56860-1 (printed); ISBN 978-0-642-56861-8 (online).
  4. Rebecca Hancock (2008). “Recognising research on molluscs”. Australian Museum. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  5. Ruppert, E.E., Fox, R.S., and Barnes, R.D. (2004). Invertebrate Zoology (ấn bản 7). Brooks / Cole. Front endpaper 1. ISBN 0-03-025982-7.
  6. Winston F. Ponder and David R. Lindberg (2004). “Phylogeny of the Molluscs”. World Congress of Malacology. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  7. David M. Raup & Steven M. Stanley (1978). Principles of Paleontology (ấn bản 2). W.H. Freeman and Co.. 4–5. ISBN 0716700220.
  8. Barnes, R.S.K., Calow, P., Olive, P.J.W., Golding, D.W. and Spicer, J.I. (2001). The Invertebrates, A Synthesis (ấn bản 3). UK: Blackwell Science.
  9. Kubodera, T. and Mori, K. (2005). "First-ever observations of a live giant squid in the wild". Proceedings of the Royal Society B 272 (1581): 2583–2586. doi:10.1098/rspb.2005.3158. PMC 1559985. PMID 16321779. http://www.canarias7.es/pdf/docs/informecalamargigante.pdf. Retrieved ngày 22 tháng 10 năm 2008. 
  10. Richard Black, “Colossal squid out of the freezer”, BBC News, ngày 26 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2008.
  11. Lydeard, C.; R. Cowie, R., Ponder, W.F., et al (April 2004). "The global decline of nonmarine mollusks". BioScience 54 (4): 321–330. doi:10.1641/0006-3568(2004)054[0321:TGDONM]2.0.CO;2. http://www.unc.edu/~keperez/lydeard_bioscience.pdf. Retrieved 20 Oct 2009. 

Liên kết ngoài[sửa]

Liên kết đến đây