Cải tiến và phổ cập phương pháp cứu lò ngải
CẢI TIẾN VÀ PHỔ CẬP PHƯƠNG PHÁP CỨU LÒ NGẢI ĐỂ CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
Mục lục
TÓM TẮT ĐỀ TÀI[sửa]
Cứu là phương pháp phòng trị bệnh đơn giản và hiệu quả đã được chứng nghiệm qua hàng ngàn năm lịch sử.
Các phương pháp cứu truyền thống ngày nay ít được phổ cập do có nhiều nhược điểm không còn thích hợp với con người hiện đại, như cứu bằng mồi ngải (trực tiếp hoặc gián tiếp) dễ gây bỏng phồng lỡ sẹo, hoặc cứu bằng điếu ngải thường tốn công cầm hơ từng huyệt một, lại do thường xê dịch (vì mỏi tay) làm sức nóng không đều không tập trung nên hiệu quả kém.
Để khắc phục các nhược điểm trên đây, Lương y Phan Công Tuấn đã cải tiến phương pháp cứu điếu ngải thành phương pháp cứu lò ngải, với dụng cụ đặc chế lò cứu dùng phố hợp với điếu ngải truyền thống, cùng một số phụ liệu như vải điều lót trên huyệt để điều chỉnh độ nóng, rượu gừng, rượu gấc, rượu tỏi ... để xoa lên vùng huyệt nhằm tăng cường tác dụng tán hàn, hoạt huyết, tiêu độc ... như trong các cách cứu cách gừng, cách gấc, cách tỏi.
Nhìn chung, so với các phương pháp châm và cứu truyền thống, cứu lò ngải có nhiều ưu điểm tiện ích hơn hẳn như sau :
- Cứu lò ngải có thể điều tiết độ nóng (bằng cách tăng hay giảm số lần vải lót) phù hợp theo cảm thụ riêng của từng người bệnh, nên tránh được tai biến bỏng lỡ thường gặp khi đốt cứu.
- Cứu lò ngải có lò cứu giữ cố định điếu ngải trên huyệt cần cứu nên nhiệt lượng tập trung, sức nóng ổn định giúp hiệu quả tăng cường, mặt khác nhờ không phải dùng tay cầm giữ, nên cùng một lúc có thể cứu nhiều huyệt, giúp thầy thuốc tiết kiệm đựoc thời gian làm việc, cũng như người bệnh đỡ tốn thời gian chờ đợi.
- Cứu lò ngải chủ yếu mang lại cảm giác ấm nóng khoan khoái dễ chịu (tính ôn bổ), thích hợp cho nhiều loại hình bệnh tật, nhất là các bệnh chứng suy nhược mạn tính; không gây đau rát, không có nguy cơ lây nhiễm bệnh qua đường máu, không đòi hỏi chế độ thanh tiệt trùng nghiêm ngặt, nên có thể thực hiện điều trị lâu dài mà người bệnh không phải e dè sợ hãi.
- Cứu lò ngải dùng thủ thuật thao tác đơn giản, ấn định vùng huyệt rộng rãi dễ xác định, nên người bệnh hay người nhà sau một vài lần được thầy thuốc hướng dẫn “cầm tay chỉ việc” là có thể tự thực hiện đốt cứu trị bệnh tại nhà.
- Cứu lò ngải không những tiết kiệm tiền bạc (vì chi phí giá thành điều trị rất thấp) thích hợp cho quãng đại quần chúng lao động nghèo, mà còn phù hợp với ngân quỹ thời gian rất eo hẹp của con người hiện đại.
Tóm lại, lò cứu ngải là phương pháp cứu cải tiến mang đậm bản sắc khoa học, dân tộc, đại chúng, nếu được các cẫp lãnh đạo hội ngành y tế quan tâm tạo điều kiện phổ cập rộng rãi trong công tác CSSKCĐ chắc chắn sẽ góp phần đắc lực phục vụ cho công tác xã hội hóa y dược học cổ truyền và sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.
ĐẶT VẤN ĐỀ[sửa]
Châm cứu là phương pháp chữa bệnh độc đáo chiếm vị trí rất quan trọng trong hệ thống Đông y học cổ truyền. Đó là những y thuật quen thuộc, đơn giản nhưng hiệu quả, được quảng đại quần chúng ưa thích và tín nhiệm từ ngàn đời nay. Việt Nam chúng ta rất đỗi tự hào là một trong các nước có lịch sử châm cứu lâu đời nhất trên thế giới, trải qua bao biến thiên thăng trầm vẫn tồn tại và phát triển trong lòng văn hóa dân tộc cho đến ngày nay. Đặc biệt trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, châm cứu Việt Nam với con chim đầu đàn là GS. Nguyễn Tài Thu đã không ngừng đi lên đạt được nhiều thành tựu to lớn trên cả hai bình diện phổ cập và chuyên sâu, phục vụ đắc lực sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cộng đồng (CSSKCĐ).
Phương pháp cứu là một trong hai bộ phận của khoa châm cứu, thuộc phạm vi phép chữa ngoài (ngoại trị, khác với nội trị là dùng thuốc uống trong), tức thông qua tác động kích thích lên huyệt vị từ mặt ngoài cơ thể nhằm điều chỉnh khí huyết kinh mạch và công năng tạng phủ bên trong để đạt mục đích phòng trị bệnh tật. Nếu châm là dùng các loại kim nhỏ châm vào huyệt vị rồi làm thủ thuật kích thích đau - tức - tê - nặng, thì cứu lại dùng mồi ngải hoặc điếu ngải đốt hơ trên huyệt vị, lấy sức nóng và khí thuốc tác động, vừa có tác dụng điều khí trị thần như phép châm, lại có công năng ôn kinh tán hàn, thông hành huyết mạch, thăng đề tạng khí, phò nguyên cố thoát chiếm ưu thế hơn hẳn so với phép châm. Chính vì vậy mà trong tác phẩm kinh điển Nội Kinh Linh Khu (thiên Quan Năng) đã viết rằng các chứng châm không tác dụng thì dùng cứu rất tốt (châm sở bất vi, cứu chi sở nghi). Do đó từ ngày xưa, châm và cứu là được kết hợp sử dụng trong một khoa thống nhất thể hiện qua danh xưng châm cứu còn đến ngày nay.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, hiện nay đang có sự phát triển mất cân đối trầm trọng giữa hai bộ môn châm và cứu. Có thể nói không ngoa, là toàn bộ thành tựu phát triển của châm cứu Việt Nam trong mấy chục năm qua gần như gói trọn trong lĩnh vực châm, nhất là các phương pháp châm mới như mãng châm, điện châm, thủy châm, nhu châm, châm tê, châm loa tai ... Còn về phương pháp cứu thì hầu như giẫm chân tại chỗ, nếu không muốn nói là ngày càng mai một. Có trên 90% bệnh nhân đi điều trị châm cứu nhưng thực tế chỉ được châm chứ không hề được cứu.
Theo chúng tôi, sở dĩ phương pháp cứu không thịnh hành là do các nguyên nhân chính sau :Đối với thầy thuốc, dùng phép cứu tốn thời gian gấp đôi ba lần so với châm, vì phải cứu từng huyệt một, phải trực bên bệnh nhân suốt thời gian cứu, trong khi đó nếu dùng châm thì thời gian lưu kim có thể đi khám bệnh, bốc thuốc hoặc châm cho người khác. Đối với bệnh nhân, dùng cứu - nhất là cứu bằng mồi ngải, cứu trực tiếp thường gây nóng rát, phồng lỡ thành sẹo nên ít muốn tiếp nhận phương pháp này. Hơn nữa, đối với các bệnh thích ứng cho phép cứu thường thiên về hư hàn, suy nhược lâu ngày, bệnh mạn tính, đòi hỏi thời gian trị liệu lâu dài, nếu công việc bận rộng không có điều kiện đến cơ sở chẩn trị thường xuyên thì khó đạt kết quả như mong muốn.
Để giải quyết những khó khăn thực tiễn trên đây, sau nhiều năm mày mò thực nghiệm cải tiến các phương pháp đốt cứu, cuối cùng chúng tôi đã tìm ra phương pháp cứu lò ngải khả dĩ khắc phục được những nguyên nhân bất lợi nêu trên đồng thời có thể hướng dẫn cho bệnh nhân tự thao tác thực hành điều trị tại nhà theo chỉ định của thầy thuốc.
Phương pháp phòng chữa bệnh đơn giản và hiệu quả này, nếu được tổ chức phổ cập rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở những vùng sâu vùng xa sẽ trở thành một công cụ đắc lực phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP CỨU LÒ NGẢI[sửa]
DỤNG CỤ CỨU LÒ NGẢI[sửa]
1. Điếu ngải :
Dùng lá ngải cứu khô lâu năm vò nhuyễn, bỏ xơ cộng và bột lá, lấy phần tơi xốp mềm mại (ngải nhung) đem quấn giấy quyến thành điếu ngải. Có thể trộn bột thuốc theo công thức bài Thái Ất Thần Châm hoặc một số dược liệu thay thế khác vào ngải nhung để tăng cường hiệu quả. Điếu ngải được làm thủ công (theo hướng dẫn trong sách Châm cứu học hoặc Trung y học khái luận) mọi người đều có thể tự làm được. Chúng tôi làm theo kỹ thuật riêng, cho thành phẩm điếu ngải chặt chẽ, cháy tốt, bó tàn, hương thơm tự nhiên, kích thước dài 18cm, cỡ trung bình đường kính 1cm, mỗi điếu cháy từ 40 - 60 phút, có thể cứu trong 2 lần. Điếu ngải làm sẵn cho vào hộp kín để bảo quản sử dụng lâu dài. Chúng tôi đóng thành gói 12 điếu dùng cứu đủ 1 liệu trình 12 ngày.
2. Lò cứu :
Là vật dụng hình nón úp, miệng lò (đáy trống ở dưới) hình tròn đường kính 3cm, xung quanh khoét vài ba lỗ thông gió, và 1 ống tròn hơn1cm (vừa đút lọt điếu ngải, đồng thời làm cán nắm). Lỗ tròn cách miệng lò 1 - 1,5cm (để giữ cố định khoảng cách giữa điếu ngải với mặt da), phía trên kín, có khoét một số lỗ nhỏ để thông hơi. Có thể làm bằng nhiều chất liệu không cháy để chế lò ngải, nhưng theo chúng tôi tốt nhất là bằng đất nung tính ôn hòa (thổ khí), giá thành rẻ nhất. Chúng tôi đã thiết kế mẫu và cho sản xuất thử nghiệm lò cứu ngải đất nung đặt tên là lò cứu Việt Nam, xin xem hình mẫu đính kèm.
3. Một số vật liệu hỗ trợ khác gồm :
- Vải điều (sợi cotton) : Cắt thành vuông nhỏ 20 x 40cm, để gấp đôi, gấp tư, gấp tám, đặt trên huyệt điều chỉnh độ nóng.
- Rượu gừng, tỏi, gấc : Dùng mỗi thứ 100g, giã nhỏ, ngâm riêng trong 150ml rượu 500, tùy nhu cầu cần tán hàn, tiêu độc hay hoạt huyết mà dùng từng loại thoa trên huyệt trước và sau khi cứu để tăng cường hiệu quả (như trong cách cứu gián tiếp).
- Dầu mù u (chế phẩm có bán trên hiệu thuốc tây) : Dùng bôi lên huyệt sau khi cứu nếu nghe nóng rát nhiều để phòng trị phỏng.
Ngoài ra, trong bộ dụng cụ còn có 1 gạt tàn và một số bông băng, cồn sát trùng, dây vải, băng keo, gối đòn để kê buộc lò cứu ở những vị trí đặt để không thuận tiện.
KỸ THUẬT CỨU LÒ NGẢI[sửa]
1. Thao tác cứu lò ngải :
Đốt cháy một đầu điếu ngải, đun vào trong lò ngải rồi đặt trên điểm đau hay huyệt cần cứu. Khi người bệnh bắt đầu nghe nóng quá thì lót thêm một lớp vải điều, cứ thế lót tăng dần lên 2, 4, 6, 8 ... lớp đồng thời đẩy dần điếu ngải vào sao cho đầu đỏ điếu ngải luôn ở điểm giữa lò ngải ngay trên huyệt cứu (cách da khoảng 1 - 1,5cm). Khi tàn bó dài thì lấy lò ngải ra gạt bớt tàn rồi đặt vào lại. Thời gian cứu mỗi huyệt từ 10 - 15 phút. Sau khi cứu, vùng da huyệt cứu đỏ ửng lên là tốt. Nếu nghe nóng rát thì bôi ngay dầu mù u vào để phòng trị bỏng.
2. Chọn huyệt cứu :
Phép cứu không dùng nhiều huyệt như châm, mỗi lần chỉ cứu 1 - 2 huyệt, tối đa 3 - 4 huyệt đơn, nên việc chọn huyệt hết sức quan trọng. Chỉ có thầy thuốc Đông y nắm rõ tính năng tác dụng các loại huyệt cũng như cách phối hợp chúng, sau khi thăm khám chẩn đoán cụ thể, theo biện chứng luận trị lý - pháp - phương - huyệt mới có thể quyết định chọn huyệt cứu cho bệnh nhân. Ở đây không nhắc lại cách dùng các loại huyệt : a thị, du, mộ, nguyên, lạc, khích, ngũ du, bát hội, giao hội ... Chỉ xin đặc biệt lưu ý một kinh nghiệm riêng của chúng tôi rất trọng dụng các huyệt trên Nhâm - Đốc mạch, nhất là các huyệt có vị trí trùng các luân xa trong yoga khí công, không chỉ chữa bệnh cục bộ mà có tác dụng toàn thân rất tốt.
Cũng cần lưu ý thêm : Phải tuân thủ thứ tự cứu các huyệt theo quy ước của người xưa : Huyệt trên trước - huyệt dưới sau, huyệt kinh dương trước - huyệt kinh âm sau, huyệt chủ trị trước - huyệt phối hợp sau.
3. Tư thế cứu :
Tùy huyệt cứu mà có tư thế thích hợp sao cho suốt thời gian cứu người bệnh vẫn thoải mái, không mỏi, không cựa mình dễ làm rơi đổ lò cứu. Thường chọn tư thế để huyệt cứu hướng lên trên, cho bệnh nhân nằm úp hoặc nằm ngửa là tốt nhất. Cũng trong các tư thế này, vẫn có thể cứu được nhiều huyệt nằm nghiêng hay đứng như Bách hội, Túc tam lý, Kiên ngung ... bằng cách dùng thêm đòn kê, gối đệm, băng keo hay dây vải buộc hoặc chèn giữ cố định lò cứu. Một số huyệt như Trường cường, Hội âm, Dũng tuyền chọn tư thế ngồi và cho lò cứu ngửa lên. Một số huyệt vùng kín nam nữ có thể để nguyên áo quần mà đặt lò cứu lên vẫn tốt, chỉ cần lót thêm một vài lần vải để khỏi ám khói gây bẩn áo quần. Nói chung, trừ một số ít huyệt trên mặt, đầu ngón tay chân không đặt được lò cứu (khi ấy phải cầm điếu ngải mà hơ), còn hầu hết đều dùng lò cứu để lên được.
4. Liều lượng cứu :
Dùng lò cứu vẫn chủ động dùng lượng kích thích bổ tả khác nhau tùy theo bệnh. Cứu bổ thì chỉnh đầu ngải cháy nhích xa mặt da hơn, dùng nhiều lớp vải lót cho nóng ấm dịu, giữ cố định lò cứu, thời gian cứu lâu hơn (20 - 30 phút). Cứu tả thì chúc đầu ngải cháy gần mặt da hơn, dùng ít lớp vải lót, dùng thêm quạt để điếu ngải cháy mạnh, động viên người bệnh gắng chịu nóng, khi nóng quá có thể nhấc lò cứu ra rồi đặt lại nhiều lần như vậy (như cứu mổ cò), có thể chủ động cứu phồng, thời gian cứu ngắn hơn (10 - 15 phút)
Thời gian cứu với bệnh mạn tính, suy nhược mỗi ngày 1 lần, nên chọn lúc nghỉ ngơi sau khi ăn là tốt nhất. Một liệu trình cứu khoảng 12 ngày, một đợt điều trị có thể vài ba liệu trình. Với bệnh cấp tính có thể cứu ngày 2 lần, khi hết bệnh thì thôi (thường chỉ 5 - 7 lần cứu).
Đối với trẻ em, chỉ nên sử dụng cứu ấm cho trẻ trên 7 tuổi, thời gian cứu từ 5 -7 phút. Các trường hợp khác phải theo chỉ dẫn riêng của thầy thuốc.
Đối với nam giới, người mập, người lao động tay chân cứu lâu hơn, kích thích nóng mạnh hơn so với nữ giới, người ốm, người lao động trí óc.
5. Đề phòng và xử lý tai biến do cứu :
- Cần giải thích trước cho bệnh nhân về các mức độ nóng ấm cần thiết trong đốt cứu để hợp tác theo dõi thông báo điều chỉnh kịp thời, không nên cố gắng chịu nóng dễ gây bỏng (trừ khi chủ động cứu bỏng). Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp điểm cứu bỏng phồng ngoài ý muốn do tổ chức da mỏng mảnh khác thường, do người bệnh giảm hay mất cảm giác, hoặc do thầy thuốc hay người thao tác chưa có kinh nghiệm đốt cứu. Sau khi cứu nghe nóng rát khác thường phải bôi ngay dầu mù u, sau tiếp tục bôi ngày 3 - 4 lần. Nếu có nốt phồng nhỏ để mấy ngày sau tự khô và lành. Nếu nốt phồng lớn dùng kim vô trùng chích cho ra nước dịch, vẫn bôi dầu mù u và dùng băng gạt băng lại, giữ vệ sinh và thay băng hằng ngày đến khi khỏi hẳn. Cần giải thích cứu bỏng là hiện tượng bình thường và rất phổ biến ngày xưa, thường đem lại hiệu quả cao hơn cho bệnh nhân yên tâm.
- Nên lưu ý không cứu ở vùng mặt, mắt, tim, vùng có mạch máu lớn, vùng bụng phụ nữ có thai ... Đối với các huyệt sách cổ ghi cấm cứu cần thận trọng, có thể sử dụng cứu ấm nhưng tuyệt đối không được để bỏng.
- Đối với bệnh chứng thực nhiệt, người phát sốt cao, đau bụng nội khoa có nôn ra máu hoặc không rõ nguyên nhân thì không dùng. Thận trọng với bệnh tiểu đường, cao huyết áp.
- Có tài liệu ghi cứu vẫn có thể gây choáng ngất như hiện tượng vựng châm, nhưng thực tế lâm sàng sử dụng phương pháp lò cứu chúng tôi chưa hề gặp. Tuy nhiên vẫn nên đề phòng bằng cách chọn phòng cứu cần thoáng khí, mở cửa cho gió hoặc quạt nhẹ để tản khói, và lưu ý không để bệnh nhân hen suyễn dị ứng ngửi trực tiếp khói điếu ngải cháy.
PHẠM VI ỨNG DỤNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ[sửa]
1. Ứng dụng theo kinh điển :
Cứu là phương pháp trị liệu rất thích nghi với bệnh chứng thuộc phạm vi âm hàn hư nhược. Nội kinh Tố Vấn cho rằng người phương Bắc sống ở địa thế cao, gió băng lạnh lẽo, ở lều, ăn thịt, uống sữa, nội tạng bị hàn dễ sinh bệnh đầy trướng, điều trị nên dùng phép cứu. Vì vậy, phép cứu có nguồn gốc từ phương Bắc truyền tới. Nội Kinh Linh Khu thì nhiều lần nhắc lại các chứng hãm hạ (tức dương khí hạ hãm, công năng nội tạng suy nhược) thì dùng phép cứu. Trương Trọng Cảnh, tác giả Thương hàn tạp bệnh luận cũng cho rằng đại pháp trị bệnh mùa Đông nên ôn và cứu.
Thực ra, với các công năng : Trợ nguyên dương, thông kinh lạc, ôn trung, trừ hàn, bổ hư, tả thực, phát uất, tán tà, phép cứu có thể ứng dụng trong phạm vi rộng rãi hơn nhiều như sách Y học nhập môn đã tổng kết : “Bệnh hư dùng cứu để hỏa khí trợ nguyên dương ; bệnh thực dùng cứu khiến thực tà theo hỏa mà phát tán ; bệnh hàn dùng cứu để cho khí ấm trở lại ; bệnh nhiệt dùng cứu để dẫn khí uất nhiệt phát ra ngoài, đó đều là ý nghĩa của phép cứu chữa bệnh.
Trong lịch sử Đông y, đã từng có nhiều tác giả chủ trương không châm, chỉ dùng riêng phép cứu để chữa bệnh như Vương Đảo trong Ngoại đài bí yếu (Đời Đường, Trung Quốc), Lê Trác Như trong Cứu pháp tinh vi (1805, Việt Nam), hay gần đây chúng tôi có sưu tầm được tài liệu cổ là tập Châm cứu thần phương, chưa rõ tác giả và niên đại, qua bản phiên âm từ chữ Nôm của L.Y Đoàn Khắc Hoàng ở Quảng Ngãi cũng chỉ dùng đơn độc phép cứu điều trị gần trăm chứng bệnh. (Chúng tôi có trích giới thiệu trên Thông tin Đông y Đà Nẵng số 2 và số 3)
2. Chu trình áp dụng cứu lò ngải :
Chúng tôi áp dụng phương pháp cứu lò ngải trên bệnh nhân đến khám chữa bệnh theo chu trình gồm 3 bước như sau :
- Bước 1 : Thầy thuốc khám bệnh, chỉ định phương pháp điều trị bằng cứu có thể kết hợp với thuốc và châm để điều trị tấn công, thời gian từ 1 - 2 ngày, hay 1 - 2 liệu trình tùy theo bệnh cấp, mạn, nặng, nhẹ ...
- Bước 2 : Khi bệnh thế tạm ổn, thầy thuốc chỉ định huyệt vị (đánh dấu) cung cấp dụng cụ, hướng dẫn kỹ thuật cho bệnh nhân hay người nhà tự thao tác để tiếp tục điều trị duy trì tại nhà thêm 1 - 2 liệu trình.
- Bước 3 : Bệnh nhân tái khám theo hẹn để được chỉ định tiếp tục hay đình chỉ điều trị, nếu tiếp tục có thể điều chỉnh phương huyệt thích hợp theo từng giai đoạn hay triệu chứng bệnh biến.
Nói chung, bệnh nhân không được tự ý điều trị lâu dài, mà phải theo sự hướng dẫn tư vấn cụ thể của thầy thuốc chuyên môn.
3. Nhận xét kết quả điều trị :
Qua gần 10 năm áp dụng, bước đầu nhận xét chúng tôi thấy cứu lò ngải là phương pháp trị liệu tốt, thích ứng với nhiều loại hình bệnh tật như sau :
a) Cứu điều trị bệnh cấp tính - cấp cứu :
Từ các bệnh cấp tính thông thường như cảm mạo, đau đầu, đau lưng, vẹo cổ, cơn hen suyễn, nấc cụt, nôn mửa, đầy bụng, tả lỵ, đinh nhọt ... đến các chứng cấp cứu như choáng ngất, trúng gió, trúng hàn, trúng phòng, chết đuối, bí đái, thai phụ gần sinh thai nhi không quay đầu, sản phụ nhau không ra hay thai chết lưu, trẻ em lên cơn động kinh ... Tất cả các bệnh chứng này dùng phép cứu điều trị tích cực, kịp thời cho kết quả tốt đẹp, nhanh chóng, nhiều khi thần hiệu (tức thời) chỉ sau một vài lần cứu.
b) Cứu điều trị bệnh mạn tính - suy nhược :
Các chứng phong hàn thấp tý, viêm đa khớp hoặc một khớp, thần kinh tọa, thoái hóa đốt sống - khớp xương, đau dạ dày, đại trường co thắt, lỵ mạn tính, sốt rét, hen suyễn, lao tổn, di chứng liệt mặt, liệt nửa người, phù thũng, liệt dương, lãnh cảm, viêm sinh dục, sa sinh dục, hiếm muộn, vô sinh, di tinh, đái són, đái dầm, thoát giang, u bướu, mụn cơm (mụn cóc), chai chân, thấp chẩn (chàm), nhọt độc các loại ... Các chứng bệnh này thường đau lâu ngày, phát đi phát lại, thuộc hàn - nhiệt, hư -thực thác tạp, cần điều trị lâu dài, kiên trì mới cho kết quả tốt. Vì vậy, dùng lò ngải điều trị tại nhà là phương pháp tốt nhất, cho hiệu quả chắc chắn, an toàn và tiết kiệm nhất.
c) Cứu dưỡng sinh phòng bệnh, nâng cao sức khoẻ :
Đối với người khỏe mạnh, người cao tuổi, hoặc người bẩm thụ yếu đuối (tiên thiên bất túc), hay người mới ốm khỏi, dùng lò ngải cứu để nâng cao sức khỏe, đề phòng bệnh sinh hoặc tái phát. Người xưa từng đúc kết nhiều phương huyệt như cứu Túc tam lý, Thần khuyết để kéo dài tuổi thọ, hay cứu 7 huyệt dự phòng trúng phong (Bách hội, Phong trì, Kiên tỉnh, Khúc trì, Phong thị, Túc tam lý, Huyền chung) rất hiệu quả ... Theo chúng tôi tùy theo tình trạng sức khỏe, tinh - khí - thần, âm dương tạng phủ thịnh suy mà chọn phương huyệt thích hợp để cứu dự phòng. Nên trong lĩnh vực này vẫn cần có sự chỉ dẫn tham vấn của thầy thuốc mới đem lại hiệu quả chắc chắn.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ[sửa]
Cứu là phương pháp phòng trị bệnh đơn giản hiệu quả đã được chứng nghiệm qua hàng ngàn năm lịch sử. Cứu lò ngải là phương pháp cứu cải tiến vừa thừa kế tinh hoa, vừa khắc phục nhược điểm của các phương pháp đốt cứu cổ điển và cận đại. Tính tiện lợi của nó không những thích ứng với điều kiện kinh tế mà còn phù hợp với đặc trưng văn hóa Việt Nam, vừa đảm bảo giữ gìn được tính chất cổ truyền dân dã, vừa thích hợp với lối sống tiện nghi và quỹ thời gian eo hẹp của con người hiện đại.
So với “người anh em sinh đôi” là phương pháp châm, phương pháp cứu lò ngải cũng có nhiều ưu điểm nổi trội. Nếu châm đòi hỏi thao tác chuẩn mực điêu luyện, ấn định huyệt vị chính xác thủ thuật bổ tả phức tạp, chỉ có thầy thuốc chuyên môn mới có thể thực hiện, thì cứu lò ngải dùng thao tác thủ thuật đơn giản, ấn định vùng huyệt rộng dễ xác định hơn, người bệnh hay người nhà bệnh nhân sau một lần được “cầm tay chỉ việc” là có thể thao tác tự điều trị tại nhà. Trong khi châm thường gây đau, gây cảm giác sợ hãi e dè, đòi hỏi chế độ vô trùng, tiệt trùng nghiêm ngặt (nhất là trong tình hình đại dịch AIDS hoành hành hiện nay), thì phương pháp cứu lò ngải chủ yếu mang lại cảm giác ấm nóng khoan khoái dễ chịu, không đòi hỏi thanh - tiệt trùng nghiêm ngặt, không có nguy cơ lây nhiễm bệnh qua đường máu.
Bên cạnh các ưu điểm nêu trên, cứu lò ngải cũng có một vài nhược điểm như khói thuốc và mùi tàn thuốc có thể gây khó chịu cho một số người, thực ra nếu đầu tư công kỹ nghệ có thể chế được điếu ngải cháy không khói, nhưng khi ấy giá thành tăng nhiều lần so với điếu ngải thông thường, thực hiện điều đó có lẽ chưa thích hợp với giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Với các nội dung và đặc điểm đã trình bày, theo chúng tôi, cứu lò ngải thật sự là một phương pháp khoa học, dân tộc, đại chúng, phổ cập phương pháp cứu cải tiến này là một nhiệm vụ thiết yếu cần đưa vào chương trình công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, nhất là ở những vùng sâu vùng xa, nơi đời sống kinh tế văn hóa còn nhiều khó khăn. Chúng tôi xin kiến nghị tổ chức một mô hình áp dụng cứu lò ngải trong CSSKCĐ như sau :
Nếu được sự quan tâm triển khai thực hiện của Bộ Y tế và các tổ chức Hội - ngành Đông y - châm cứu, nhất là sự nhiệt tình hưởng ứng hướng dẫn người bệnh của đội ngũ cán bộ y - bác sĩ, lương y hội viên Hội Đông y Việt Nam, Hội Châm cứu Việt Nam và Hội Dược liệu Việt Nam, chúng tôi tin tưởng rằng nhất định chúng ta sẽ tổ chức thành công mô hình này.
Viết chuyên luận này, thật ra chúng tôi chỉ dám mạo muội đề xuất một ý tưởng từ kinh nghiệm thực tiễn cá nhân, do kiến thức và kinh nghiệm có hạn, thời gian thực hiện gấp rút, chuyên luận này hẳn còn không ít thiếu sót bấp cập trong việc trình bày, kiến giải và kiến nghị, tác giả mong nhận được góp ý bổ sung của cấp lãnh đạo hội ngành, các nhà hoạch định chính sách y tế, các nhà nghiên cứu chuyên môn, các học giả, các lương y lão thành cùng quý bạn đồng nghiệp để tu chính hoàn thiện trong những lần công bố sau, và quan trọng hơn là để sớm thực hiện cải tiến, khôi phục và phổ cập phương pháp cứu trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng thời gian đến.
Tác giả[sửa]
Đà Nẵng, ngày Tiểu tuyết 22/11/2001
- L.Y PHAN CÔNG TUẤN
- Địa chỉ liên hệ: Hòa Thọ Đông - Cẩm Lệ - Đà Nẵng-
- ĐT: 0511.3672127; E.mail: locuuvietnam@yahoo.com
Bản quyền[sửa]
Tác giả giữ bản quyền, không được phép sửa chửa bài này.
Đề tài đã được báo cáo tại tại các Hội thảo Khoa học của Hội Đông y và Hội Châm cứu TP.Đà Nẵng.
Bài đã đăng trên Tạp chí Cây Thuốc Quý số 4-5-6-7 và Tạp chí Đông y số 336.