Đặc điểm hệ tiết niệu trẻ em

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Đặc điểm về giải phẫu[sửa]

Thận[sửa]

Trọng lượng và kích thước[sửa]

Trọng lượng thận của trẻ sơ sinh tương đối lớn hơn ở người lớn nếu so sánh với cân nặng toàn thân (12 g/3 kg chiếm 4% so với 150 g/50 kg chiếm 0,3%). Thận lớn nhanh trong năm đầu, một năm tuổi hơn gấp 3 lần. Sau đó phát triển từ từ và phát triển mạnh vào thời kỳ dậy thì. Kích thước: Theo H.Seipelt thì chiều dài của thận tương đương với độ dài của 4 đốt sống thắt lưng đầu tiên cho bất kỳ lứa tuổi nào và không khác biệt giữa trai và gái.

Với đặc điểm về định khu như trên, đặc biệt ở trẻ dưới 2 tuổi, người thầy thuốc nhi khoa có thể sờ thấy thận bình thường một cách dễ dàng hơn là các lứa tuổi về sau.

Cấu trúc[sửa]

Thận trẻ sơ sinh cho đến 2 tuổi còn giữ cấu tạo tiểu thùy từ thời kỳ bào thai nên nhìn đại thể thận có nhiều múi

Tỷ lệ giữa vỏ và tủy thận ở sơ sinh là 1:4; ở bú mẹ là 1:2,5; và ở người lớn là 1:2. Như vậy ở sơ sinh vỏ thận còn ít biệt hóa hơn và trẻ lớn lên thì sự biệt hóa phát triển dần dần.

- Nephron: Đơn vị cấu tạo và chức phận của thận là nephron. Số lượng nephron khoản một triệu cho mỗi thận kể từ tuần thứ 25 của thai nhi và sau đó chỉ tăng kích thước. Trong nephron, phần ống thận tương đối kém phát triển hơn cầu thận. Diện tích lọc của cầu thận tỉ lệ thuận và tương ứng với diện tích da.

- Hệ thống tuần hoàn thận có một số đặc điểm sau:

Đường kính tiểu động mạch đến lớn gấp hai lần tiểu động mạch đi. Hệ thống mao mạch kép ở phần vỏ.

Hệ thống mạch thẳng (vasa recta) gồm các mạch máu dọc theo ống Henle nằm gần tủy thận. Sự phân bố máu ở thận không đều: ở trẻ sơ sinh phần tủy cung cấp máu nhiều hơn phần vỏ; ở trẻ lớn ngược lại, phần vỏ được cung cấp máu nhiều hơn phần tủy.

Đài thận- bể thận - niệu quản[sửa]

Mỗi thận có từ 10-12 đài thận, thường được xếp thành 3 nhóm: trên, giữa và dưới, hình dáng đài bể thận thay đổi tùy theo từng lứa tuổi.

Niệu quản trẻ sơ sinh đi ra từ bể thận một cách vuông góc, còn ở trẻ lớn thì thường góc tù. Chiều dài niệu quản sơ sinh bằng ¼ chiều dài niệu quản người lớn và ngoằn ngoèo nhiều hơn nên dễ bị gấp hoặc xoắn.

- Bàng quang: Bàng quang ở trẻ nhỏ nằm cao hơn ở người lớn, nên có thể sờ thấy được.

Dung tích bàng quang phụ thuộc vào tuổi và yếu tố sinh lý (thức hay ngủ)

tuổi sơ sinh bú mẹ 6 tuổi 10 tuổi 15 tuổi

V ( ml ) 30 - 60 60 - 100 100 - 250 250 - 350 300 - 400

Thần kinh bàng quang xuất phát từ đám rối hạ vị và từ các dây thần kinh cùng S3-S4 để tạo thành đám rối bàng quang.

- Niệu đạo: niệu đạo trẻ gái ngắn, thẳng và rộng hơn niệu đạo trẻ trai: sơ sinh gái dài 0,8-1 cm; sơ sinh trai 5-6 cm. Tuổi dậy thì con gái 2-4 cm; con trai 6-15 cm.

Đặc điểm sinh lý hệ tiết niệu trẻ em[sửa]

Sự phát triển chức năng thận ở trẻ em[sửa]

Thời kỳ bào thai:[sửa]

Cuối thai kỳ thận đã hoạt động bài tiết nước tiểu và chất lạ

Thời kỳ sơ sinh[sửa]

Ngay sau đẻ chức năng thận đã phát triển và hoàn thiện dần về mặt giải phẩu và sinh lý, từ 2 tuổi trở đi, về cơ bản, chức năng thận đã tương tự ở người lớn. Thận có 2 chức năng chính là tạo nước tiểu và nội tiết.

Tạo nước tiểu nhằm thực hiện 2 nhiệm vụ là: đào thải sản phẩm cặn bã của các quá trình chuyển hóa cũng như giữ lại những chất cần thiết cho cơ thể và giữ hằng định nội môi về thẩm thấu, điện giải, kiềm toan.

Để đảm bảo 2 nhiệm vụ này, thận phải lọc huyết tương ở cầu thận và bài tiết cũng như tái hấp thu ở ống thận.

Chức năng nội tiết thường ít được nói đến, gồm 5 yếu tố sau:

Renin-Angiotensin-Aldosteron: liên quan đến huyết áp

Erythrogenin- Erythropoietin: liên quan đến tạo hồng cầu

Kallikrein-Bradykinin: liên quan đến mạch máu

Prostaglandines : liên quan đến hô hấp-tuần hoàn

Hydroxylase-1,25 Dihydroxycholecalciferol: tham gia chuyển hóa Ca, P liên quan đến hoạt động của xương.

Nước tiểu[sửa]

Lý thuyết về sự cấu tạo nước tiểu[sửa]

Hiện nay thuyết lọc và tái hấp thu là thuyết được nhiều người công nhận.

Theo thuyết này thì động mạch thận trực tiếp tách ra từ động mạch chủ bụng nên áp lực khá cao, máu vào thận nhiều qua các mao quản cầu thận Malpighi, tạo thành dịch lọc.

Mức lọc cầu thận trung bình 120-125 ml/phút thì tính ra trong 24 giờ khối lượng dịch lọc là 173-180 lít/24 giờ.

Nhưng trong các ống thận đã diễn ra một sự hấp thu có chọn lọc, nước được tái hấp thu ở ống lượn gần 75%, quai Henle 5%, ống lượn xa 15%, ống góp 5%.

Như vậy dịch lọc còn lại sau quá trình tái hấp thu gần hết này được gọi là nước tiểu khi đổ vào bể thận.

Số lượng nước tiểu[sửa]

Phụ thuộc chế độ ăn uống và chức năng thận.

Trẻ dưới 1 tuổi, trung bình 25-50 ml/kg/ngày.

Trẻ trên 1 tuổi: V ml/24giờ = 600+100 (n-1) n: tuổi

Số lần đi tiểu[sửa]

Phụ thuộc dung tích bàng quang.

Những ngày đầu sau sinh tiểu rất ít có khi không đi tiểu.

Dưới 1 tuổi: 16-20 lần/ngày.

Trên 1 tuổi: 12 lần/ngày.

7-13 tuổi: 7-8 lần/ngày.

Từ 6 tháng đã có thể hướng dẫn đi tiểu đúng giờ.

Thành phần nước tiểu[sửa]

pH: phản ứng acid nhẹ cũng có thể trung tính hoặc kiềm khi thức ăn có rau

Tỷ trọng: những ngày đầu sau sinh là 1,006-1,008, sau đó xuống 1,003-1,005.

Trẻ càng lớn tỷ trọng nước tiểu càng cao lên. Khi mất nước thì tỷ trọng có thể lên đến 1,020-1,030

Bài tiết Kali ở trẻ nhỏ nhiều hơn trẻ lớn còn bài tiết Na thì ngược lại

Bài tiết Urê và Creatinin ở trẻ bú mẹ kém hơn trẻ lớn trong khi bài tiết Amoniac và acid Amin lại nhiều hơn trẻ lớn.

Phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh lý và các bất thường giải phẫu hệ tiết niệu[sửa]

Những bất thường về giải phẫu (dị dạng đường tiểu) thường dẫn đến tình trạng nhiểm trùng đường tiểu tái phát nhiều lần ở trẻ nhỏ, cao huyết áp hoặc suy thận.

Các triệu chứng cơ bản của hệ tiết niệu, biểu thị qua sự xuất hiện nhiều triệu chứng khác nhau như thay đổi thể tích và thành phần nước tiểu (rối loạn nước-điện giải; rối loạn thăng bằng kiềm toan); rối loạn xuất tiểu (tiểu khó, tiểu buốt, tiểu rắt...)

Ngoài ra các quá trình bệnh lý ở thận không thể coi là chỉ tổn thương một mình ở thận mà nó còn lôi cuốn theo hoặc còn phải chịu ảnh hưởng ít nhiều của hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, tim mạch, bạch huyết và cả những tuyến nội tiết khác.

Cần hướng dẫn cho các bà mẹ biết một số bệnh thường gặp ở hệ tiết niệu như sự bất thường bên ngoài của cơ quan sinh dục (hẹp bao qui đầu, tinh hoàn ẩn, lổ tiểu đóng thấp..) để đưa trẻ đi khám sớm nhằm giải quyết kịp thời tránh biến chứng về sau.

Các bệnh lý gây mất nước (ỉa chảy, nôn...) có thể gây rối loạn chức năng sinh lý của thận đưa đến suy thận cũng như một số thuốc khi dùng phải được sự chỉ dẫn của bác sỹ chuyên khoa...

NGUỒN

Giáo trình Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược Huế

Liên kết đến đây