Khủng bố sinh học của Tự nhiên
Đó là một hành trình dài và đầy căng thẳng của Michael Specter với những người trên tiền tuyến cuộc chiến toàn cầu chống lại dịch cúm gia cầm. Bài phóng sự đăng lần đầu tiên trên The New Yorker và được tuyển chọn trong "The best American science writing 2006"
Mục lục
Những nạn nhân ở Thái Lan[sửa]
Tháng9/ 2004, một cô bé 11 tuổi ở Kamphaeng Phet (Thái Lan) đột nhiên bị sốt cao, ho nặng và đau họng. Cô sống cùng với chú và dì trong một ngôi nhà gỗ một gian. Gia đình họ có 15 con gà, được thả rông chạy trên sàn nhà, nơi cô bé vẫn chơi đùa và thậm chí còn ngủ ở đó. Khi các con gà đột nhiên lăn ra chết cũng là lúc cô bé bị ốm. Người dì đã đưa cô đến bệnh viện nhưng cô vẫn sốt ngày càng cao. Mẹ của cô bé khi ấy đang làm việc trong một nhà máy gần Bangkok đã lập tức trở về với con gái. Nhưng chỉ sáu giờ sau khi gặp được mẹ, cô bé đã qua đời. Theo phong tục của người Thái, cô đã được hỏa táng ngay lập tức.
Dịch cúm gia cầm không phải là hiện tượng mới ở Thái Lan, cũng như ở bất cứ nơi nào có gia cầm được nuôi. Các bác sỹ thú y vẫn thường coi nó như nạn dịch gà, một loại dịch đã từng giết chết hàng triệu con gà và các loài chim khác trong nhiều năm. Năm 1983, loại virus gây dịch ở gà này đã lây lan khắp vùng Pennsylvania (Mỹ) và nguy hiểm đến mức các cơ quan y tế đã buộc phải tiêu hủy gần như toàn bộ số gà ở bang này. Tuy nhiên, cho đến những năm gần đây, loại virus này mới bắt đầu có trường hợp gây bệnh cho con người. Thực ra từ năm 1959 cũng đã có trường hợp người bị nhiễm bệnh, khi ấy hiện tượng này là cực kỳ hiếm, hơn nữa những biểu hiện bệnh lại rất nhẹ và không ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe. Nhưng, căn bệnh đã giết chết cô bé ở Kamphaeng Phet lại hoàn toàn khác; chỉ trong hai năm, nó đã làm chết hàng trăm triệu vật nuôi ở hơn mười nước châu Á. Chưa từng có loại virus nào từng lây lan nhanh qua một khu vực địa lý rộng như thế. Hầu hết các virus chỉ tấn công một loài hoặc một nhóm loài. Nhưng loại virus này lại gây bệnh cho quá nhiều loài. Nó đã từng giết chết gà lôi xanh, thiên nga đen, chim cu gáy, báo, chuột, lợn, mèo nhà và hổ. Đầu tháng 2/2005, gần 500 con cò đã chết tại Boraphet, vùng đầm nước sạch lớn nhất của Thái Lan. Bệnh dịch này theo nhiều con đường khác nhau đã ngày càng lan rộng và vượt ra khỏi châu Á. Tháng 10/2004, hải quan ở sân bay Brussels đã thu giữ hai con đại bàng buôn lậu từ Thái Lan bị nhiễm bệnh. Người ta đã phải tiêu hủy chúng ngay lập tức đồng thời giữ cách li toàn bộ động vật trong khu vực sân bay.
Virus này vẫn tiếp tục giết người. Chỉ trong một thời gian ngắn, 42 người đã chết, trong đó có 13 người Việt Nam. Hơn ba phần tư số người chết này được xác nhận chắc chắn là nhiễm cúm gia cầm. Tác nhân gây cúm (H5N1) được đặt tên theo hai protein của nó, những protein này giúp nó xâm nhập được vào các tế bào của cơ quan hô hấp. Nếu virus H5N1 này có thể lây lan nhanh từ người này sang người khác thì nó sẽ gây ra một đại dịch giết chết hàng triệu người. Các cơ quan y tế ở châu Á vẫn còn chưa hết choáng váng từ cuộc khủng hoảng dịch SARS hồi năm 2003 đã lại phải đối đầu với một nạn dịch mới còn ghê gớm hơn. Hóa ra virus gây dịch SARS vẫn còn được coi là kém nguy hiểm và kém lây lan hơn so với virus cúm. Có tới sáu tỷ con gà ở vùng Nam Á, nguồn thu nhập của hàng triệu hộ gia đình phụ thuộc vào chúng. Ngăn chặn sự lây lan cúm gia cầm là vấn đề sống còn, nhưng lại vô cùng khó.
Sự cảnh giác cao độ là một trong số ít những vũ khí mà người ta có trong tay. Hai tuần sau cái chết của cô bé ở Kamphaeng Phet, các nhà dịch tễ học đã được mời đến một bệnh viện gần Bangkok, nơi đang giữ cách li một phụ nữ có triệu chứng bệnh giống với bị nhiễm virus. Hóa ra đó là một báo động sai. Tuy nhiên, cùng lúc ấy, một y tá đã thông báo với các bác sỹ rằng, có một phụ nữ khác vừa chết sau những triệu chứng bệnh giống như cúm. Cái chết này đã không được báo cáo chính, nhưng họ của nạn nhân lại nghe quen quen, thực ra đó chính là tên làng của cô bé 11 tuổi.
"Đó chỉ là một sự trùng hợp", Scott Dowell đã nói. "Người phụ nữ vừa chết chính là mẹ của cô bé 11 tuổi. Chúng tôi sẽ không biết được điều đó nếu cô y tá không kể". Dowell là giám đốc văn phòng Thái Lan của một chương trình quốc tế chống bệnh truyền nhiễm. Thái Lan không phải là một nước nghèo nếu so với các nước láng giềng. Nhưng khí hậu thuận lợi của nước này cùng với các đường biên giới dài với Lào và Cam-pu-chia đã tạo điều kiện cho sự du nhập và phát tán những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Trường hợp hai mẹ con ở làng Kamphaeng Phet là trường hợp rõ ràng đầu tiên về sự lây lan từ người sang người. Và đây có thể là khởi đầu cho một điều gì đó rất trầm trọng, một điều gì đó rất khủng khiếp. Cô bé đã được hỏa táng, còn người mẹ thì được ướp xác để các bác sỹ có thể lấy mẫu xét nghiệm.
Một dịch bệnh về cơ bản là tương đương với một cơn bão. Có tất cả ba điều kiện cần thiết. Các điều kiện này không có khả năng được dự báo và hiếm khi chúng hội tụ đầy đủ. Thứ nhất, một loại virus cúm mới phải phát sinh từ cơ thể động vật, nơi luôn luôn tạo ra và tàng trữ các virus. Loại virus đó chưa từng lây nhiễm sang người và do đó không người nào có sẵn các kháng thể để chống lại nó. Thứ hai, virus phải thực sự gây bệnh cho người. (Hầu hết các virus không gây bệnh cho người). Cuối cùng, nó phải có khả năng phát tán nhanh và hiệu quả - chẳng hạn qua đường ho, hắt hơi hoặc bắt tay. Tôi và Dowell đã lên đường đến Kamphaeng Phet, trên đường đi, Dowell đã không ngừng phân vân không biết liệu loại virus này có thỏa mãn điều kiện thứ ba hay không.
Nếu điều kiện thứ ba được thỏa mãn thì thực sự là có quá ít thời gian để cung cấp thuốc, chế tạo vaccine và thực hiện cách li. "Đó là lý do tại sao mà việc lấy các mẫu máu và mô lại quan trọng đến vậy, chúng tôi cần phải biết được người phụ nữ này đã chết như thế nào", Dowell nói. "Chúng tôi đã đến bệnh viện, nơi cô bé và mẹ của cô đã chết. Ở đây, dì của cô bé đã có triệu chứng ho và sốt được năm ngày, cô ấy cũng đang kêu đau họng". Dowell và các đồng nghiệp trở nên ngày càng lo ngại. Đầu tiên, họ đã cố gắng hy vọng rằng đây chỉ là một sự trùng hợp, nhưng bây giờ, tất cả ngày càng giống như sự khởi đầu cho một nạn dịch. "Đây chắc chắn là một sự lây nhiễm từ người sang người, bởi vì trong làng không còn trường hợp nào khác", Dowell đã nói với tôi như vậy. "Không ai có kết quả thử nghiệm dương tính đối với virus. Tất cả số gà đều đã bị giết, và người mẹ thậm chí đã không sống ở đó; bà ấy không hề động vào con gà nào cả".
Dịch cúm lớn năm 1918 đã giết chết ít nhất năm mươi triệu người và gây bệnh cho hàng trăm triệu người khác. Ở Mỹ, bệnh dịch giết nhiều người hơn tất cả các trận đánh trong thế kỷ 20. Thật may là, điều kiện thứ ba cho một đại dịch đã không được thoả mãn: người dì cuối cùng đã được chữa khỏi. Còn người mẹ thì không may mắn như thế, bà đã ở bên con gái mình quá lâu, và do đó việc nhiễm bệnh là gần như chắc chắn. Virus đã không đột biến đến mức có thể dễ dàng truyền từ người này sang người khác.
Ngày 14 tháng 10/2004, 441 con hổ vằn đen Bengal ở vườn hổ Sriracha gần Bangkok bắt đầu chết. Chúng đã được cho ăn các xác gà sống từ một lò giết mổ địa phương. Cứ mỗi ngày lại có thêm bốn hoặc năm con có triệu chứng bị cúm nghiêm trọng. Đến cuối tháng đã có 45 con chết; hơn một trăm con khác đang bị nhiễm bệnh. Chúng lại trở thành mối đe dọa đối với những con khác cũng như những người chăm sóc chúng. Cho đến năm 2003, những con hổ chưa từng bị nhiễm cúm gia cầm. H5N1 đã tiến hóa quá nhanh với những biểu hiện rất đáng lo ngại.
"Chúng ta biết rằng, trong ba vụ dịch gần đây nhất - 1918, 1957, 1968 - tất cả virus đều có gene được bắt nguồn từ động vật. Năm 1918, các virus được tạo bởi hầu như là các gene của loài chim. Bây giờ chúng ta đang phải đối mặt với một loại virus động vật rất nguy hiểm ở châu Á, và nó đã chuyển sang gây bệnh cho con người. Nó đã thay đổi các đặc trưng từ vài tháng trước. Nó đang gây bệnh cho ngày càng nhiều các loài - bây giờ chúng tôi biết rằng mèo cũng bị nhiễm bệnh". Người phụ trách chương trình chống dịch cúm của WHO, Klaus Stohr lo lắng.
Ông nói tiếp, "Bây giờ chúng tôi biết rằng virus có thể gây bệnh ở loài vịt, nhưng nhiều con vịt có vẻ vẫn khoẻ mạnh. Đó là tin tốt cho loài vịt, nhưng lại là tin rất xấu đối với chúng ta, bởi vì việc kiểm soát một loại bệnh lây lan trên các hồ nước với nhưng loài chim lưu động cao là khó hơn nhiều." Các con vịt là đặc biệt nguy hiểm, bởi vì chúng có thể mang trong hệ tiêu hóa các chủng virus gây hại cho con người. Stohr đã ví chúng như những "con ngựa gỗ" xâm nhập vào mọi quốc gia trên thế giới. Tôi đã hỏi ông liệu thông tin này có cho thấy rằng loài virus đã dàn quân chuẩn bị một cuộc tấn công toàn cầu đối với con người hay không. "Tôi không thể nói chắc chắn," ông trả lời. "Nhưng hãy xét ví dụ một cầu thủ bóng đá, giả sử là một cầu thủ tồi. Anh ta phải đá 10, 15, 20 quả thì bóng mới chui vào lưới trong khi một cầu thủ tốt chỉ cần đá một lần. Virus không phải là một kẻ ghi bàn tốt. Nhưng thậm chí ngay cả một kẻ ghi bàn tệ nhất thì rồi cũng sẽ đá vào lưới sau nhiều lần đá. Và trong cuộc chơi này, virus chỉ cần ghi một bàn là nó thắng!"
Thiệt hại khôn lường[sửa]
Thật khó có thể nói hết mức độ thiệt hại của ngành chăn nuôi Thái Lan. Tính đến năm 2004, nước này vẫn là nước xuất khẩu gia cầm lớn thứ tư thế giới. Nhưng điều đó đã chấm hết kể từ những báo cáo chính thức đầu tiên về dịch cúm. Cả Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ đều ngừng nhập khẩu gia cầm từ một số nước Nam Á. (Có thể ở Trung Quốc tình hình còn nghiêm trọng hơn.) Ở Thái Lan, ngoài phần lớn là các cơ sở chăn nuôi thương mại thì vẫn còn có nhiều gia đình chăn nuôi nhỏ lẻ. Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp Quốc đã ước tính rằng có hai triệu nông dân trong khu vực này đang nuôi gia cầm, mỗi người có trung bình 15 con gia cầm - bao gồm vịt, gà, ngỗng, gà tây, chim cút. Hầu hết những vật nuôi này được thả cho kiếm ăn tự do trong bãi rào, chúng rất dễ bị lây nhiễm từ các loài chim di cư bay đến từ Siberia và miền bắc Trung Quốc.
Sự căng thẳng giữa những người chịu trách nhiệm về nền sản xuất nông nghiệp quốc gia và những người bảo vệ sức khoẻ cộng đồng là khó tránh khỏi. Ở Trung Quốc, người ta đã từng che dấu những thông tin về dịch SARS hàng mấy tháng trời vì sợ ảnh hưởng đến thương mại và du lịch. Thái Lan đã từng chi hơn một trăm triệu đô la để chống cúm gia cầm, nhưng thực ra là chính phủ nước này đã hành động một cách miễn cưỡng chậm chạp.
"Rất là khó để thuyết phục các quan chức của nước này thừa nhận sự nghiêm trọng của đại dịch," Prasert Thongcharoen, một trong những nhà vi sinh nổi tiếng nhất Thái Lan đã nói với tôi như vậy khi tôi vừa đặt chân đến Bangkok. Chúng tôi đã gặp nhau vào một buổi sáng trong phòng làm việc giản dị của ông ở bệnh viện Sirijai, bên bờ sông Chao Phraya. "Tôi tin là Bộ Vật nuôi lúc đầu đã che đậy chuyện này. Tôi đã nói chuyện với những người nông dân. Khi có những dấu hiệu đầu tiên của dịch cúm, bộ này đã công bố trước công chúng là những con gà chỉ đơn giản là bị dịch tả. Nhưng những nông dân nói rằng, đó không phải dịch tả. Nếu một con gà bị dịch tả, bạn có thể chữa cho nó bằng kháng sinh và nó sẽ khá hơn. Đằng này, những con gà bị ốm vào ngày hôm trước và hôm sau chúng chết luôn. Chắc chắn không phải dịch tả, tôi tin là bệnh này đã xuất hiện và lây lan ít nhất là từ tháng 10 năm 2003. Tại sao các bác sỹ thú y lại không nhận ra được? Thực hiện chẩn đoán không phải là việc khó. Họ đã làm không đúng. Tôi không nói là nếu làm đúng thì nhất định sẽ ngăn chặn được dịch bệnh, nhưng họ đã không làm những điều mà họ cần phải làm."
Sáng hôm sau, tôi cùng với một đại diện của WHO đến thăm một số gia đình nông dân ở Suphan Buri, một tỉnh cách Bangkok khoảng sáu mươi nhăm dặm. Đường đi rất trống trải, những con trâu nước vẫn thản nhiên gặm cỏ bên những lũy tre ven đường, những đồng lúa xanh mơn mởn vẫn rung rinh trong gió. Suphan Buri là một tỉnh tương đối thịnh vượng, nó vốn là quê của cựu thủ tướng Banharn Silpa-archa, người đã một thời gian cùng với đảng của mình nắm quyền điều phối việc phát triển nông nghiệp. Đây cũng là trung tâm công nghiệp gia cầm của Thái Lan và đã bị tàn phá bởi dịch bệnh. Ở Suphan Buri, gà và vịt được nuôi thành các đàn đông từ năm đến mười nghìn con. Chúng thường được nhốt vào các chuồng gỗ đặt trên mặt ao.
Hầu hết những đàn gia cầm của nông dân đã bị tiêu huỷ. Chính phủ đã đền bù cho họ rất thỏa đáng. Nhưng tiền đã không thuyết phục được nhiều người chuyển sang cách nuôi gia cầm an toàn hơn (các chuồng phải được đặt trên mặt đất để các chất thải của gia cầm không làm ô nhiễm nguồn nước). Khó mà có thể làm thay đổi những thói quen của một dân tộc, công việc này thường đòi hỏi sự nỗ lực quá lớn và nhiều khi là vô hiệu.
Sau khi lái xe được khoảng một giờ, chúng tôi đến gặp một người nông dân 70 tuổi đang làm việc ở một ao cá cạnh một trại gà bỏ hoang. Người nông dân này có làn da nâu sẫm và một gương mặt khá trẻ trung so với tuổi. Ông mặc một chiếc áo sơ mi trắng dài tay, đi một đôi ủng cao su cao tới đầu gối và đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh xẫm. Ông nói với tôi rằng, bệnh cúm đã báo hại ông nặng nề; bốn mươi nghìn con gà mà ông nuôi đều đã chết sạch. Ông đã phải thuê cả một cái máy xúc để chôn chúng. "Tôi đã nhét 30 con gà vào mỗi túi đựng thức ăn," ông kể. Sau đó những chiếc túi được chôn xuống những cái hố lớn gần bãi tre. "Thật là tồi tệ khi tôi phải nhìn cảnh ấy," ông nói. "Mới tuần trước, các bác sỹ thú y đã đến và kiểm tra, tất cả chúng đều khoẻ mạnh. Thế mà chỉ sau một ngày, cả nghìn con đã lăn ra chết. Tất cả chúng đã chết quá nhanh." Ông kể rằng, ông đã thôi không nuôi gà nữa và cũng chán chính phủ rồi. Ông không đủ vốn để chuyển sang hệ thống nuôi khép kín theo yêu cầu của chính phủ. "Tôi đã quá già rồi, không nuôi theo kiểu đó được," ông nói với tôi. "Thật là buồn cười, luật lệ mới bắt phải thay quần áo khi bước vào trại gà. "Anh nghĩ là ai sẽ làm việc đó ?"
Tôi đã hỏi ông lão rằng theo ông thì ai phải chịu trách nhiệm cho tình trạng này. "Ờ, bệnh cúm chim đến từ Hồng Kông, như hầu hết các loại bệnh," ông nói. "Cả SARS cũng thế. Nhưng một khi nó đã ở đây thì tôi không chắc là làm thế nào anh trừ bỏ được nó. Tôi cũng không chắc là làm thế nào anh phòng ngừa được nó."
Người nông dân chưa hoàn toàn mất nghề; ông vẫn tiếp tục nuôi gà chọi (chọi gà là một môn thể thao lớn ở Thái Lan). Những con vật này vẫn thường được bán ở các chợ. Chuồng của chúng hiếm khi được khử trùng. Người buôn thường đi hết trang trại này đến trang trại khác để mua chúng. Có hàng nghìn người chơi chọi gà. Chính phủ đã cố gắng hạn chế những nguy cơ lây lan dịch bệnh ở các chợ gà chọi nhưng công việc này đã không thành công cho lắm.
Bây giờ người nông dân này đang chuyển sang nuôi cá. "Nuôi gà chỉ cần 40 ngày là bán được," ông nói, "nhưng nuôi cá phải mất 5 tháng." Ao của ông lão có sáu mươi nghìn con cá. Vấn đề khó khăn là không biết cho cá ăn bao nhiều thì vừa và cũng không biết làm thế nào để ngăn không cho bọn chim bắt cá.
Sau khi tạm biệt ông nông dân, chúng tôi tiếp tục gặp thêm một vài người nữa. Cuối cùng, với 40 baht (tương đương với hơn 1USD một chút), tôi đã thuyết phục được một người đi xe máy dẫn chúng tôi đến một đồng cỏ màu xanh sẫm, bên cạnh một con suối. Phủ kín cánh đồng là khoảng hai nghìn con vịt mỏ dài, được quây trong những cọc rào màu trắng. Thậm chí ngồi trong xe kín chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng ồn ào ghê gớm của những con vật.
Người bảo vệ ở đây đã chỉ cho chúng tôi đến tìm người chủ của lũ vịt. Saijai Phetsringharn là một phụ nữ 40 tuổi với những ngón tay, cổ tay lấp lánh nhẫn kim cương và vòng vàng. Phetsringharn thuộc về kiểu người kinh doanh gia cầm, bà ấy đã từng có những phát biểu mạnh mẽ trước công chúng về việc chống dịch. "Phải tiêm phòng cho vật nuôi," bà nói. "Chính phủ nhất định phải tiêm chủng cho các đàn gà."
Các vaccine cho gà là có, nhưng các hướng dẫn sử dụng cho đúng thì lại không có. Cả Trung Quốc và Indonesia (hai nước này không xuất khẩu gia cầm) đều tiêm phòng cho những con chim. Nhưng chính phủ Thái Lan đã từ chối làm điều đó. Các lý do là: sẽ mất nhiều thời gian để các vaccine có hiệu lực, và có lẽ không phải lúc nào chúng cũng miễn dịch được cho chim hoặc ngăn chặn sự lây nhiễm. Về lý thuyết, điều đó nghĩa là con người có thể tiếp xúc với những con chim trông có vẻ khoẻ nhưng không có nghĩa là chúng không mang virus. Nhiều cán bộ sức khoẻ cộng đồng vẫn nói với tôi rằng, đã đến lúc chính phủ Thái Lan phải xem xét lại các chính sách. Một số làng ở Thái Lan vẫn nghĩ rằng họ có thể tự bảo vệ được đàn gà của mình bằng việc sử dụng các thảo dược.
"Có vẻ như chính phủ nghĩ rằng họ có thể giải quyết được vấn đề bằng việc tàn sát những con chim," Phetsringharn nói, bà cũng nhắc đến việc tám nghìn con vịt của mình vừa bị giết. "Họ sai rồi. Nếu họ làm thế, virus sẽ vẫn còn nhưng việc làm ăn kinh tế của chúng tôi thì chết."
Có lẽ bà ấy đúng, nhưng các nghiên cứu về gene gần đây đã xác nhận rằng, trong khi các con vịt vẫn khoẻ, chúng làm vung vãi rất nhiều virus. Mấy ngày trước đó, chính phủ đã nghĩ đến việc phải làm gì đó để xử lý ba triệu con vịt thả rông. "Vịt không giống như gà," Phetsringharn nói. "Chúng cần sự tự do của chúng." Bà ấy đang đứng trong một nhà kho có những chồng cao các khay trứng. Nhiều hộp vaccine chống dịch tả xếp đầy trên sàn nhà. Bà ấy là thế hệ thứ ba trong một gia đình nuôi vịt. "Người ta vẫn nuôi vịt như thế trước khi tôi được sinh ra, thậm chí trước khi mẹ tôi sinh ra." Bà ấy có ba đứa con, một đứa 4, một đứa 10 và một đứa 13 tuổi. Bà ấy hi vọng là chúng cũng sẽ làm kinh doanh như bà.
Nhận diện kẻ thù[sửa]
Dịch cúm là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ sáu ở Mỹ. Ở các nước kém phát triển, bệnh này thậm chí còn gây nhiều tổn thất hơn. Trong hầu hết các mùa cúm, khoảng 20% dân Mỹ bị nhiễm, khoảng ba mươi sáu nghìn người có thể chết, hơn hai trăm nghìn người phải vào bệnh viện. Ít có virus nào lại gây hại cho con người dai dẳng và nghiêm trọng như thế. Các ghi chép về bệnh đường hô hấp liên quan đến cúm đã có từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Từ "bệnh cúm" ("influenza") xuất phát từ tiếng Latinh influentia - "sự ảnh hưởng" - phản ánh một niềm tin phổ biến là các bệnh dịch được gây ra do ảnh hưởng của các ngôi sao. Người ta tỉnh thoảng vẫn gọi sự nhiễm khuẩn đường hô hấp là "bệnh cúm", nhưng trong hầu hết các trường hợp, cách gọi này là không chính xác. Bệnh cúm gây ra bởi orthomyxovirusi, bao gồm ba kiểu: A, B, và C. Các kiểu B và C có thể gây bệnh cho người nhưng chúng không phổ biến và hiếm khi nghiêm trọng. Kiểu A chính là kiểu virus mà chúng ta lo ngại. Mọi virus cúm đều có hàng trăm gai nhọn nhỏ nhô ra từ bề mặt của nó. Hầu hết các gai này được tạo bởi một loại protein của virus tên là Hemagglutinin, chúng có thể giúp các virus bám vào các tế bào mà chúng cần xâm nhập. Một loại gai khác được gọi là Neuraminidase, một loại enzyme giúp lan rộng. Hai loại protein này chính là cơ sở để các virus được đặt tên theo các chữ cái "H" và "N". Bệnh cúm kiểu A nguy hiểm bởi vì nó thuộc vào những loại virus có khả năng đột biến cao nhất, 8 gene của nó có khả năng thay thế hoặc biến đổi khó lường.
Việc tiêm phòng vaccine sẽ kích hoạt các kháng thể, tạo ra sự bảo vệ chống lại một chủng virus nhất định. Nhưng nếu bạn bị nhiễm một loại virus cúm có protein bề mặt đã thay đổi, các kháng thể sẽ không thể nhận ra chúng hoàn toàn. Chủng mới này có thể lách qua hàng rào bảo vệ phức tạp của hệ miễn dịch và tạo ra một sự nhiễm bệnh mới. Mặc dù, có thể cơ thể bạn có một số đề kháng - phụ thuộc vào mức độ biến đổi của chủng, nhưng bạn vẫn cần đến một hệ thống kháng thể hoàn toàn mới để chiến đấu với virus. Những thay đổi nhỏ trên bề mặt virus này được gọi là "sự trôi kháng nguyên."
Tám gene của virus cúm được gắn với nhau theo các đoạn, khá giống với sự ghép các viên gạch Lego. Chúng dễ dàng được dỡ ra, thay đổi và tái hợp. Khi các chủng cúm động vật trộn với các chủng cúm người, sự trộn đó luôn có khả năng sinh ra một loại virus hoàn toàn mới. Cái đó được gọi là "sự dịch chuyển kháng thể." Khi những đoạn dài của vật liệu gene được thay bằng những gene thuộc một kiểu cúm khác, hoặc từ các động vật khác như lợn hoặc gà. Kết quả sẽ là một cái gì đó kỳ lạ đến mức mà hệ miễn dịch của người không có khả năng nhận ra. Và ngay cả khi sử dụng những công cụ tinh xảo của gene học phân tử, chúng ta vẫn không thể dự đoán được virus sẽ thay đổi như thế nào, trở nên nguy hiểm hơn hay kém nguy hiểm đi. Chúng ta thậm chí cũng không biết liệu sự chọn lọc tự nhiên có chiều hướng tạo một loại virus nguy hại nhất hay không. Có điều là, một loại virus mà ác hiểm đến mức giết hết tất cả các vật chủ thì nó cũng không thể tồn tại lâu được.
Hệ thống phát tán phức tạp đối với virus cúm làm tăng thêm bản chất ngẫu nhiên trong sự tiến hóa của nó. Điểm nối giữa Thái Lan và Bán cầu Bắc là tỉnh Quảng Đông, thuộc miền nam Trung Quốc. Các loài chim di cư vẫn thường dừng lại ở đây, đó có thể là một lý do khiến nhiều dịch bệnh đã phát sinh từ nơi này. Các cơ hội để virus cúm vượt qua cái barrier giữa các loài là lớn hơn trong trường hợp thường xuyên có sự tiếp xúc giữa con người và động vật. 60% số người trên thế giới và hàng tỷ vật nuôi sống ở châu Á. Riêng tỉnh Quảng Đông đã có tám mươi sáu triệu người - nhiều hơn dân số Đức. Hàng ngày, có mười nghìn con gà được chở bằng xe tải từ Quảng Đông đến Hồng Kông. Việc trồng lúa nước cũng góp phần vào sự lây lan dịch bệnh. Nhưng người nông dân thả vịt trên ao và cả những đồng lúa sau khi gặt. Những con chim nước hoang có thể truyền virus cho vịt nuôi. Sau đó vịt truyền sang gà và lợn. Các cơ quan hấp thụ trọng tế bào hô hấp của lợn thì lại tương tự như ở người. Trong môi trường và điều kiện như vậy, một cái hắt hơi của lợn là đủ để châm ngòi cho một trận dịch.
Cúm chim và SARS[sửa]
Khi Tommy Thompson, trưởng ban Con người và Sức khỏe của chính quyền Bush tuyên bố từ chức, ông đã cảnh báo rằng, dịch cúm chim là một trong những mối nguy hiểm lớn nhất mà nước Mỹ đang phải đối mặt. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra một "ước tính dè dặt" là, sẽ có khoảng từ hai đến bảy triệu người chết và một tỷ người nhiễm bệnh trong một trận dịch như thế.
Michael Osterholm, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Truyền nhiễm ở Đại học Minnesota cũng đã thực hiện những tính toán dựa trên tư liệu về nạn dịch năm 1918. Áp dụng cho mức dân số và trình độ y tế hiện nay, Osterholm đã thu được kết quả là, ít nhất 180 triệu người sẽ chết trong một trận dịch có mức độ nguy hiểm tương đương với trận dịch 1918. Shigeru Omi, quan chức WHO phụ trách khu vực châu Á cũng đã đi đến những kết luận tương tự. Theo ông, một trận dịch H5N1 có thể gây nhiễm cho 25% - 30% dân số thế giới. Thiệt hại về kinh tế có thể lên tới 10 tỷ USD.
Robert Webster, trưởng khoa virus học Bệnh viện St. Jude ở Memphis đã nghiên cứu về bệnh cúm chim trong nhiều thập kỷ. "Đây là loại virus tồi tệ nhất mà tôi từng biết," ông nói với tôi. "Chúng ta phải chuẩn bị đối phó như thể sắp có chiến tranh. Loại virus này đúng là một kẻ khủng bố sinh học của tự nhiên. Nếu tôi sai thì nhờ Chúa mà chúng ta gặp may mắn. Nhưng nếu điều đó thực sự xảy ra thì tôi dám chắc rằng sẽ không còn nơi nào cho chúng ta lẩn trốn, cho dù là ở Mỹ, ở châu Âu hay bất cứ nơi đâu".
Các trận dịch có vẻ như vẫn xảy ra theo chu kỳ ba mươi hoặc bốn mươi năm. Hồng Kông, thành phố có mật độ dân đông nhất thế giới vẫn thường trở thành một cái ổ truyền dịch. Năm 1894, một dịch bệnh đã giết chết hơn một trăm nghìn người ở đây sau khi đi qua Trung Quốc. Hai trận dịch cúm từng tràn ra thế giới 50 năm về trước cũng lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc, sau đó là Hồng Kông. Năm 2003, SARS cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, sinh sôi ở Hồng Kông và sau đó phát tán ra thế giới. Ngày 21/5/1997, ba mươi năm sau một đại dịch, một cậu bé 3 tuổi ở Hồng Kông chết vì cúm. Khi nghiên cứu mẫu bệnh phẩm, các bác sỹ đã nhận thấy rằng loại virus gây bệnh có vẻ hơi lạ. Rõ ràng nó là virus cúm, nhưng không phải là chủng cúm mà các nhà khoa học Hồng Kông đã biết. Họ đã gửi mẫu đến các trung tâm nghiên cứu ở Anh, Hà Lan và CDC (Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch) ở Atlanta. Phải mất đến ba tháng để các chuyên gia ở những viện này có thể thống nhất về kết quả quan sát qua kính hiển vi. Nó là H5N1, trước đó được coi là chỉ ảnh hưởng đến gia cầm. Bởi vì những người nông dẫn tiếp xúc với gia cầm ốm hàng ngày vẫn không có biểu hiện bị bệnh.
Ngay khi chủng được nhận diện, Keiji Fukuda, trưởng khoa dịch tễ ở CDC đã đến Hồng Kông. Hiểm họa bệnh làm ông lo lắng, nhưng đối với ông đây cũng chính là cơ hội để nghiên cứu về một bí ẩn y học có thực. Làm thế nào mà virus đó có thể gây bệnh đối với một đứa trẻ 3 tuổi? Fukuda và các cộng sự đã dành một tháng ở Hồng Kông, xem xét tất cả những bằng chứng nhỏ nhặt nhất mà họ có thể tìm thấy. Nhưng họ đã không tìm thấy dấu hiệu nào khác chứng tỏ virus đã biết tấn công con người. "Thậm chí nó có vẻ không gây bệnh cho một người nào nữa, thành ra chúng tôi coi đây là chỉ là một trường hợp hi hữu", Fukuda đã nói với tôi khi tôi đến gặp ông ở Atlanta. "Điều này khá bí ẩn và hơi rùng rợn," ông nói với tôi. "Nhưng chúng tôi cũng hy vọng rằng, trường hợp xảy ra với cậu bé là duy nhất và hiện tượng này sẽ kết thúc ở đây".
Nhóm khảo sát trở về Mỹ và tập trung sang công việc khác. Nhưng đến cuối năm đó, một người đàn ông 44 tuổi lại phải vào viện vì cúm chim, đến ngày 5/12 thì chết. Fukuda trở lại Hồng Kông. "Tôi thực sự ngạc nhiên trước hành tung của loại virus này - có thể các gene của nó đã trộn với các gene của người và nó đang di chuyển tự do từ người này sang người khác. Lúc ngồi trên máy bay, tôi đã chợt nghĩ, nếu điều này thực sự xảy ra, lạy Chúa, chúng tôi đến đây vì cái gì vậy?" Đến cuối tháng 12 năm 1997, đã có 18 người ở Hồng Kông bị nhiễm bệnh, 6 trong số họ đã chết - một tỷ lệ tử vong cao đáng kể. Các nhà nghiên cứu đã không thể hiểu được virus tấn công con người bằng cách nào. Trước đây, các nhà khoa học đã tin rằng, những đột biến như vậy đòi hỏi các cơ thể trung gian, chẳng hạn như các cơ thể lợn để làm nơi trộn gene. Những hiện tượng mới này lại cho thấy rằng H5N1 không cần vật chủ trung gian. Dường như là virus đã có khả năng di chuyển trực tiếp từ loài chim sang loài người. "Tôi không biết tại sao tôi lại nhớ điều này", Fukuda kể cho tôi nghe về một chuyện xảy ra ở Hồng Kông. "Giáng sinh năm đó là vào một ngày thứ năm. Đó là một ngày rất tồi tệ. Có quá nhiều người bị ốm. Cả thành phố đã chìm trong một bầu không khí thật kinh khủng", Fukuda đã nói rằng, chỉ có những biện pháp thật quyết liệt mới có thể dập tắt được dịch bệnh. Bộ Nông nghiệp Hồng Kông cũng đồng ý với điều đó khi nhận thấy rằng virus đang lây lan nhanh trong các chợ gia cầm của thành phố. Có rất nhiều loài chim được nuôi trong nhà và bán ngoài chợ, đây là một môi trường lý tưởng để các gene từ các virus khác có thể trộn lẫn với virus cúm và gây đột biến. Ngày 29/12, các quan chức thành phố bắt đầu ra lệnh giết toàn bộ gà ở Hồng Kông. Một triệu rưỡi con chim đã bị giết, khử trùng và chôn xuống đất. Quyết định được đưa ra khá mạo hiểm, nhưng có vẻ như nó đã có hiệu quả. Không có thêm ai bị ốm nữa và nhiều chuyên gia sức khoẻ cộng đồng đã tin rằng việc tiêu hủy các loài chim ở Hồng Kông đã ngăn chặn được một dịch bệnh khủng khiếp. Trong vài năm sau đó, không có thêm báo cáo nào về việc virus cúm chim gây bệnh cho người; một số người thậm chí còn đủ tự tin để hy vọng rằng H5N1 đã bị đánh bại. Fukuda thì không chắc chắn được như thế. Ông vốn là người hiểu rõ về mức độ nguy hiểm tiềm tàng của những bệnh truyền nhiễm. Đến đầu năm 2003, những lo sợ của Fukuda đã được xác nhận. Lại có một cậu bé 9 tuổi cùng với người bố của cậu phải vào bệnh viện ở Hồng Kông vì cúm chim. Cậu bé đã sống sót nhưng cha cậu thì không qua khỏi.
Cũng trong tháng đó, đội phản ứng nhanh WHO bắt đầu nhận được những báo cáo về "một căn bệnh truyền nhiễm lạ lùng" đã tấn công khoảng hai chục người ở tỉnh Quảng Đông, tiếp giáp với Hồng Kông. Một tháng trước đó, những con ngỗng cũng đã đột nhiên lăn ra chết trong một vài công viên ở Hồng Kông. Klaus Stohr ở WHO đã tham gia vào một cuộc họp ở Bắc Kinh để giúp Trung Quốc xúc tiến một chiến dịch tiêm phòng cúm quốc gia. Stohr đã ngày càng tỏ ra hoang mang khi nhận những báo cáo về bệnh dịch ở nhiều tỉnh. Trong cuộc họp, một quan chức đến từ Quảng Đông đã đứng dậy và thông báo về sự bùng nổ của một dịch cúm bất thường. Mọi người đang lần lượt tử vong và họ khó có thể biết được cụ thể nguyên nhân vì sao. Một tháng sau đó. Stohr nói với tôi: "Chắc chắn H5N1 đã quay trở lại theo đúng như những gì mà chúng ta đã lo ngại. Nó là cơn ác mộng lớn nhất của chúng ta - và của cả thế giới".
Căn bệnh mà người Trung Quốc đang lo lắng lại hóa ra là SARS. Nhưng sự nhầm lẫn đó là không thể hiểu được. Những triệu chứng đầu tiên của SARS dường như rất giống với những triệu chứng của bệnh cúm. Và không ai mong đợi loại virus hoàn toàn mới này. Toàn bộ Hồng Kông đã phải trải qua một cú sốc về kinh tế, xã hội và tâm lý. Sau mỗi lần chở khách, những tài xế taxi đã khử trùng toàn bộ xe của họ và treo một cái biển ở bên ngoài xe viết rằng: xe đã được khử trùng hoàn toàn. Số người đi tàu điện ngầm giảm xuống nhanh chóng. Những người đủ can đảm để sử dụng hệ thống giao thông này thì đều đeo một cái bịt mặt màu trắng. Chỉ trong một thời gian ngắn, tất cả các cửa hàng trong thành phố đều bán hết sạch thuốc khử trùng tay và khăn bịt mặt. Các nhà hàng và khách sạn hoặc là đóng cửa hoặc là gần như không có khách. Hệ thống truyền thông liên tục phát đi những báo động về đại dịch. Lần này là lần đầu tiên WHO đưa ra một báo động toàn cầu, khuyến cáo mọi người không nên đến Hồng Kông và Giang Đông trừ khi không còn lựa chọn nào khác. Các ngành kinh tế thiệt hại đến hàng tỷ USD, ngành du lịch dường như biến mất. Đại dịch đã đẩy thành phố đến bên bờ của sự suy thoái lần thứ ba trong vòng một thập kỷ.
Nguồn[sửa]
- Tác giả: Michael Specter, The New Yorker
- Dịch giả: TT, Tạp chí Tia sáng