Phân biệt giữa suy dinh dưỡng và còi xương

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

PHÂN BIỆT GIỮA SUY DINH DƯỠNG VÀ CÒI XƯƠNG

Nhiều bà mẹ thường gộp và hiểu suy dinh dưỡng và còi xương là một bệnh, cứ thấy trẻ thấp bé nhẹ cân hơn bình thường là bảo cháu bị còi xương suy dinh dưỡng. Đây là hai bệnh khác nhau và có thể cùng hiện diện trên một cơ thể trẻ. Có trẻ bụ bẫm ăn ngủ tốt (không suy dinh dưỡng) nhưng vẫn bị bệnh còi xương (còi xương thể bụ bẫm), mặt khác nhiều trẻ còi cọc, suy dinh dưỡng nhưng không bị bệnh còi xương.

Người ta chỉ bổ xung vitaminD và can xi theo liều điều trị cho trẻ còi xương, tuy nhiên trong điều trị suy dinh dưỡng có bổ xung vitaminD và can xi nhưng không phải là chủ yếu,


Phân biệt bệnh còi xương và tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em[sửa]

Tình trạng suy dinh dưỡng:[sửa]

Là tình trạng thiếu hụt các chất dinh dưỡng cần thiết làm ảnh huởng đến quá trình sống, hoạt động và tăng trưởng, trẻ bị suy dinh dưỡng, có số đo về cân nặng và chiều cao đều thấp hơn trẻ bình thường, cũng có thể kèm theo bệnh còi xương hoặc không.

Bệnh còi xương:[sửa]

Là một bệnh do không cung cấp đủ nhu cầu về can xi và phốt pho cho nhu cầu phát triển dẫn đến có những tổn thương ở xương. Bệnh có thể gặp ở cả những đứa trẻ rất bụ bẫm, do nhu cầu về canxi, phospho cao hơn trẻ bình thường.

Trẻ suy dinh dưỡng:[sửa]

Là tình trạng thiếu hụt các chất dinh dưỡng cần thiết làm ảnh huởng đến quá trình sống, hoạt động và tăng trưởng bình thường của cơ thể, đứng cân kéo dài hay sụt cân, (các chỉ số về chiều cao và cân nặng dưới mức theo độ tuổi).Trẻ mệt mỏi, không hoạt bát, hay quấy khóc, chán ăn, ít ngủ, hay bị bệnh, chậm biết bò trườn, đi đứng, chậm mọc răng.Trường hợp suy dinh dưỡng nặng, thể hiện ở 3 thể : thể phù, thể teo đét hay hỗn hợp

a. Thể phù:[sửa]

Trẻ chỉ được nuôi bằng chất bột, thiếu tất cả những chất dinh dưỡng đa lượng có cung cấp năng lượng và các chất dinh dưỡng vi lượng khác: Trẻ bị phù thũng toàn thân, rối loạn sắc tố da, thiếu máu da xanh, niêm nhạt, suy thoái ở da, lông, tóc, móng, còi xương, biểu hiện thiếu vitamin D, hạ canxi huyết. Biểu hiện thiếu vitamin A: còi cọc, khô giác mạc, quáng gà, hay bệnh… Trẻ chậm phát triển tâm thần, vận động, trẻ mệt mỏi, không hoạt bát, hay quấy khóc, chán ăn, ít ngủ, hay bệnh, chậm biết bò trườn, đi đứng, chậm mọc răng.

b- Thể teo đét:[sửa]

Trẻ thiếu dinh dưỡng toàn bộ, vẻ ngoài giống như ông già, các bắp thịt teo đét toàn bộ, các triệu chứng thiếu hụt chất dinh dưỡng tương tự như trong thể phù nhưng tiên lượng thường tốt hơn do tổn thương các cơ quan nhẹ hơn : gan không thoái hoá mỡ, không bị đe doạ suy tim, niêm mạc ruột bị ảnh hưởng ít, mức độ thiếu các chất dinh dưỡng thường nhẹ hơn thể phù.

Nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng trẻ em là do: Các bà mẹ thiếu kiến thức nuôi dưỡng, cho con ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, thức ăn không đảm bảo chất lượng, cai sữa sớm, trẻ bị nhiễm trùng cấp hoặc mãn tính (viêm phế quản mãn, ỉa chảy, lao, sởi....), trẻ bị thiếu ăn do điều kiện gia đình khó khăn, thức ăn cả chất và lượng đều không đủ và các yếu tố nguy cơ: trẻ đẻ nhẹ cân, bị các dị tật bẩm sinh, tập quán nuôi dưỡng và chăm sóc sai khoa học....

Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng mức độ nhẹ và vừa thì có thể điều trị tại nhà bằng cách: điều chỉnh hoặc tăng cường khẩu phần ăn, điều trị các bệnh nhiễm khuẩn (nếu có), tìm nguyên nhân và loại bỏ các nguyên nhân gây suy dinh dưỡng... theo dõi cân nặng hàng tuần, hàng tháng, tiêm chủng đầy đủ.

Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng nặng thì phải điều trị tại bệnh viện: bù nước - điện giải, bổ sung vitamin và muối khoáng, truyền đạm, điều trị thiếu máu, chống nhiễm khuẩn, chống hạ đường huyết, chống hạ thân nhiệt, …

Bệnh còi xương[sửa]

Trẻ em bị còi xương là do cơ thể bị thiếu hụt vitamin D làm ảnh hưởng đến quá trình hấp thu và chuyển hóa canxi và phospho.


Những dấu hiệu chứng tỏ trẻ bị còi xương:[sửa]

- Trẻ hay quấy khóc, ngủ không yên giấc, hay giật mình, ra nhiều mồ hôi khi ngủ. Xuất hiện rụng tóc vùng sau gáy tạo thành hình vành khăn.

- Các biểu hiện ở xương: thóp rộng, bờ thóp mềm, thóp lâu kín, có các bướu đỉnh, bướu trán (trán dô), đầu bẹp cá trê. Các trường hợp còi xương nặng có di chứng: chuỗi hạt sườn, dô ức gà, vòng cổ chân, cổ tay, chân cong hình chữ X, chữ O.

- Răng mọc chậm, trương lực cơ nhẽo, táo bón. Chậm phát triển vận động: chậm biết lẫy, biết bò, đi, đứng…


Điều trị còi xương[sửa]

+ Cho trẻ tắm nắng hàng ngày: để chân, tay, lưng, bụng trẻ lộ ra ngoài từ 10 -15 phút lúc buổi sáng (trước 9 giờ). Về mùa đông không có ánh nắng cho trẻ đi tắm điện ở khoa vật lý liệu pháp tại các bệnh viện.

Dưới da có sẵn các tiền vitamin D (7dehydrocholesterol), dưới tác dụng của tia tử ngoại của ánh nắng mặt trời các tiền vitamin sẽ bị hoạt hóa chuyển thành vitamin D. Vitamin D có tác dụng điều hòa chuyển hóa và hấp thu canxi, phospho, ánh nắng mặt trời phải được chiếu trực tiếp trên da mới có tác dụng, nếu qua lần vải thì sẽ còn rất ít tác dụng.

+ Thuốc uống (thường dùng các thuốc sau)

- Thuốc Calcium Corbiere, ống 5ml gồm có: 0.55g Calci glucoheptonat, 0.05g Vitamin C, 0.025g Vitamin PP Trẻ em: 1-2 ống/ngày uống vào buổi sáng và buổi trưa .Thời gian uống bạn không nên duy trì dài quá 2 tháng. Vì: Thừa canxi gây sỏi thận mạn tính, canxi hóa động mạch... Khi uống quá liều, lượng canxi thừa ít được hấp thu, nếu được hấp thu sẽ bị thải ra ngoài cùng nước tiểu gây sỏi thận. Lượng canxi trong máu được điều hòa một cách nghiêm ngặt, ít khi có biến đổi dù là thừa hay thiếu. Vì vậy, muốn biết có bị thừa canxi hay không, nên định lượng canxi niệu 24 giờ. Nếu lượng canxi niệu trên 300 mg/24 giờ (7,5mmol/24 giờ) thì phải ngừng điều trị. Khi sử dụng canxi, nên uống vào buổi sáng, sau ăn một giờ vì dùng vào buổi tối dễ gây sỏi thận và kích thích mất ngủ.

- Thuốc Aquadetrim Vitamin D3 có: Cholecalciferol 15.000 IU/ml (1ml khoảng 30 giọt). Mỗi ngày uống 1 giọt. thời gian uống nên duy trì khoảng 1 tháng , theo dõi tiến triển của bệnh, có thể nghỉ 1 tuần rồi lại lặp lại quá trình điều trị lần trước. Cần tránh dùng quá liều. Dùng liều quá cao trong thời gian dài hoặc liều sốc có thể gây rối loạn thừa canxi. Nhu cầu vitamin D hàng ngày ở trẻ em và liều dùng cần được xác định cho từng cá nhân, kiểm tra định kỳ và thay đổi cho phù hợp, đặc biệt trong những tháng đầu của trẻ.