Từ Hệ tư tưởng đến Hệ giá trị
I. Tư tưởng, Hệ tư tưởng và Sự lạc hậu của các hệ tư tưởng
Trước hết cần phải khẳng định rằng tư tưởng, với tư cách là sản phẩm tinh thần của con người, luôn tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu cầu nhận thức của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói, tư tưởng là một trong những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con người hoàn toàn có quyền tự hào, thứ sản phẩm còn cao hơn và tinh xảo hơn mọi thứ sản phẩm công nghiệp hay công nghệ tinh xảo nhất.
Trong cuộc sống có nhiều tư tưởng khác nhau. Các tư tưởng tương tác với nhau, tập hợp lại với nhau một cách tự nhiên thành một chuỗi các nhận thức, được thừa nhận và bị loại bỏ cũng theo quy luật tự nhiên. Là công cụ của nhận thức, tư tưởng thể hiện thông qua các hành vi, cả những hành vi của tư duy lẫn những hành vi bản năng. Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các cá nhân cụ thể và có vai trò định hướng hành động. Do đó, nhận thức về tư tưởng phải linh hoạt chứ không thể coi nó là những giá trị bất biến.
Nếu tư tưởng là công cụ của nhận thức thì hệ tư tưởng là hệ thống các công cụ ấy. Hệ tư tưởng không phải là sản phẩm riêng của cộng đồng, thậm chí nó cũng không phải là sản phẩm riêng của thời đại, nó là sự tổng hòa những kinh nghiệm sống của nhiều cộng đồng người và của nhiều thời đại.
Việc
phổ
biến
rộng
rãi
một
hệ
tư
tưởng
nào
đó
bao
giờ
cũng
nhằm
hướng
dẫn
hành
vi
của
cả
cộng
đồng,
góp
phần
tập
trung
một
cách
cao
độ
và
nhất
thời
các
nguồn
lực
của
cộng
đồng
ấy
vì
những
mục
tiêu
nhất
định,
lại
những
thời
điểm
nhất
định.
Tuy
nhiên,
sử
dụng
hệ
tư
tưởng
như
một
công
cụ
nhận
thức
toàn
dân
là
một
nhiệm
vụ
quan
trọng
nhưng
cũng
hết
sức
nguy
hiểm,
nhất
là
khi
việc
sử
dụng
như
vậy
xảy
ra
trong
thời
gian
dài.
Bởi
lẽ,
nó
có
thể
đẩy
cộng
đồng
ấy
rơi
vào
tình
trạng
thụ
động,
thậm
chí
là
phản
động.
Thực
tế
cho
ta
thấy
chính
sự
áp
đặt
và
định
hướng
hành
vi
theo
cách
đó
đã
hạn
chế
năng
lực
sáng
tạo
của
con
người.
Thậm
chí,
đã
đến
lúc
cần
phải
lên
án
tính
lỗi
thời
của
hệ
tư
tưởng
như
là
kết
quả
của
sự
bảo
thủ
hay
là
tính
lười
biếng.
Việc
con
người
không
dám
nhận
thức
chủ
động
mà
vẫn
bám
giữ
các
hệ
giá
trị
cũ
được
xây
dựng
bởi
hệ
tư
tưởng
cũ
sẽ
tạo
ra
tính
lạc
hậu
tương
đối
của
hệ
tư
tưởng
đối
với
sự
phát
triển
của
đời
sống.
Chính
hệ
tư
tưởng,
với
những
yếu
tố
thuộc
về
bản
chất,
đã
hạn
chế
năng
lực
sáng
tạo
của
con
người
và
do
đó,
làm
mất
đi
tính
đa
dạng
sinh
học
của
nhận
thức.
Trong
thế
kỷ
XX
chúng
ta
đã
mắc
phải
hai
sai
lầm
nghiêm
trọng.
Sai
lầm
thứ
nhất
là
tách
hệ
tư
tưởng
ra
khỏi
cuộc
sống
và
biến
nó
thành
một
thứ
để
tôn
thờ.
Tôn
thờ
những
giá
trị
tinh
thần
thì
đúng,
nhưng
tôn
thờ
những
giá
trị
cụ
thể
của
tinh
thần
thì
lại
hoàn
toàn
sai.
Tư
tưởng
không
phải
là
thứ
để
tôn
thờ
mà
nó
được
sinh
ra
nhằm
phục
vụ
sự
phát
triển.
Do
đó,
khi
tư
tưởng
không
còn
thích
hợp
hay
đã
trở
nên
lạc
hậu
thì
chúng
ta
chỉ
nên
nhìn
nhận
nó
như
một
giá
trị
lịch
sử
với
những
công
lao
thuộc
về
thời
quá
khứ
mà
thôi.
Sai
lầm
thứ
hai
là
tách
các
giá
trị
biểu
kiến
của
sự
vật
ra
khỏi
giá
trị
vật
lý
của
nó.
Thị
trường
chứng
khoán
là
một
ví
dụ
điển
hình.
Thị
trường
chứng
khoán
tạo
ra
một
hệ
thống
các
giá
trị
ảo
bên
ngoài
năng
lực
thật
của
nó.
Trong
lĩnh
vực
tư
tưởng
cũng
vậy.
Những
thế
lực
ở
thượng
tầng
kiến
trúc
đang
tôn
thờ
một
giá
trị,
trong
khi
cuộc
sống
đã
và
đang
đòi
hỏi
con
người
phải
tìm
kiếm
những
giá
trị
khác.
Quan
điểm
của
chúng
tôi
hết
sức
rõ
ràng:
hiện
nay,
hệ
tư
tưởng
không
còn
tương
thích
với
sự
phát
triển
của
thế
giới
hiện
đại
nữa,
nó
chỉ
còn
là
những
giá
trị
lịch
sử.
Đó
là
một
sự
thật,
không
chỉ
ở
những
quốc
gia
nghèo
đói,
mà
ở
trên
phạm
vi
toàn
thế
giới,
có
lẽ
chỉ
trừ
ở
chỗ
nào
mà
con
người
vẫn
muốn
tiếp
tục
nô
dịch
con
người.
Thế
giới
đang
thay
đổi
hàng
ngày
và
nó
đòi
hỏi
mỗi
người
phải
có
năng
lực
tư
duy
độc
lập.
Không
thể
chống
lại
trào
lưu
tự
nhiên
ấy
và
chúng
tôi
tin
rằng
một
thảm
họa
sẽ
xảy
ra
nếu
chúng
ta
gắng
sức
duy
trì
sự
thống
trị
của
những
hệ
tư
tưởng
cũ.
II.
Sự
lên
ngôi
của
Hệ
giá
trị
1. Đặc điểm của thế giới hiện đại
Như trên đã nói, thay đổi không ngừng là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy nhất của thế giới hiện đại. Con người trong thời đại mới buộc phải không ngừng vận động để thích nghi với các thực thể khác. Tốc độ phát triển của thế giới được đó bằng thước đo dựa trên những yếu tố hiện thực của các quốc gia phát triển và do đó, thay đổi để thích nghi là nhiệm vụ vô cùng khó khăn nhưng không thể trốn tránh của các nước đang và kém phát triển. Trong một môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh sâu sắc, nếu một dân tộc có năng lực cạnh tranh kém sẽ ngày càng ít cơ hội để phát triển. Như vậy, đồng thời với các cơ hội được mở ra, toàn cầu hóa cũng tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển trong quá trình mở cửa, hội nhập.
Đa
phương
hóa
quan
hệ
là
đặc
điểm
cơ
bản
thứ
hai
của
con
người
trong
thế
giới
hiện
đại.
Gần
đây,
trên
các
phương
tiện
thông
tin
đại
chúng,
người
ta
nói
nhiều
đến
hội
nhập
quốc
tế
trên
tất
cả
các
mặt
của
cuộc
sống
như
là
một
điều
kiện
tiên
quyết
cho
phát
triển,
một
xu
thế
tất
yếu
mà
không
một
quốc
gia
nào
có
thể
đứng
ngoài.
Trong
chiến
lược
phát
triển
của
các
quốc
gia,
đa
hương
hóa
quan
hệ
là
một
trong
những
mục
tiêu
cơ
bản
nhất.
Toàn
cầu
hóa
làm
cho
thị
trường
của
mỗi
quốc
gia
được
mở
rộng
ra
phạm
vi
quốc
tế,
nhờ
đó
quan
hệ
mua
bán
hàng
hóa
và
dịch
vụ
được
tăng
lên
nhanh
chóng.
Chưa
bao
giờ
mối
quan
hệ
của
các
quốc
gia
được
mở
rộng
như
trong
bối
cảnh
hiện
nay
và
sự
phát
triển
của
mỗi
quốc
gia
gắn
liền
với
các
quốc
gia
khác
vì
lợi
ích
chung
của
tất
cả
các
bên.
Trình
độ
dân
trí
ngày
càng
cao
là
đặc
điểm
cơ
bản
nữa
của
thế
giới
hiện
đại.
Tốc
độ
phát
triển
như
vũ
bão
của
khoa
học
-
công
nghệ
là
minh
chứng
rõ
nét
nhất
cho
sự
phát
triển
của
tri
thức
con
người.
Ngày
càng
được
xã
hội
hóa,
quốc
tế
hóa
và
toàn
cầu
hóa
qua
đó,
vốn
tri
thức
này
tác
động
tới
mọi
mặt
của
đời
sống
kinh
tế,
chính
trị,
văn
hóa,
xã
hội
của
từng
quốc
gia.
Thông
tin,
tri
thức
được
phổ
biến
rộng
rãi
trên
phạm
vi
toàn
thế
giới
và
do
đó,
gắn
kết
con
người
với
nhau,
kết
quả
là
các
quốc
gia
tác
động
qua
lại
lẫn
nhau,
chịu
ảnh
hưởng
của
nhau
ngày
càng
sâu
sắc.
Hơn
nữa,
trình
độ
dân
trí
ngày
càng
cao
làm
cho
con
người
dần
dần
nhận
ra
giới
hạn
của
thế
giới
xung
quanh.
Họ
cũng
nhận
ra
và
trực
tiếp
hay
gián
tiếp
phổ
biến
những
giá
trị
toàn
cầu,
trong
đó
đặc
biệt
quan
trọng
là
những
giá
trị
cá
nhân.
Đó
chính
là
động
lực
của
các
cuộc
cách
mạng
về
tư
tưởng.
2.
Sự
áp
đặt
tư
tưởng
và
sự
hình
thành
hệ
giá
trị
Mặc dù có sứ mệnh quan trọng là giúp con người tổ chức các hành vi trong cuộc sống, hệ tư tưởng không phải không có những giới hạn, mà trước hết là những giới hạn về thời gian, về tính thích hợp và đặc biệt là tính phổ biến. Sai lầm cơ bản của chúng ta là không hiểu được những giới hạn ấy. Chúng ta luôn có xu hướng nghĩ hộ người khác, một người nghĩ cho muôn người. Trong cuộc sống, có những vấn đề mang tính sống còn, mang tính chiến lược cần đến những nhận thức cá nhân đặc biệt để vận động và tổ chức mọi người giải quyết. Thế nhưng sẽ hoàn toàn sai lầm nếu biến nhận thức cá nhân thành công cụ chế sẵn để áp đặt cho mọi người. Nếu ai đó tự cho mình có cái quyền sáng tạo ra hệ tư tưởng và dùng quyền lực để phổ biến áp đặt nó cho xã hội, thì về thực chất kẻ đó đã đẩy cả cộng đồng đi theo hướng thụ động và tước đoạt cảm hứng nhận thức của toàn xã hội. Dĩ nhiên, trên thực tế, nhiều quốc gia, nhiều cộng đồng đã có hệ tư tưởng của mình. Nhưng đó không phải là kết quả của một mà nhiều người, của toàn xã hội, kết quả của việc lựa chọn, sự sàng lọc tự nhiên những cái có lý trong tư tưởng của các cá nhân. Nó khác xa với sự áp đặt tư tưởng bằng cách dùng các phương tiện công cộng nhằm gây ra tính không đối xứng về nhận thức của con người. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, áp đặt hệ tư tưởng lên con người và tiêu diệt khả năng tự do nhận thức, tự do tư tưởng, tự do hiểu biết của con người là biến con người thành những kẻ bị nô dịch về tư tưởng.
Chúng
tôi
đánh
giá
rất
cao
luận
văn
của
ông
Joseph
Stiglitz,
người
đoạt
giải
Nobel
kinh
tế
năm
2001
về
tính
không
đối
xứng
của
thông
tin.
Tuy
vậy,
chúng
tôi
cho
rằng
tính
không
đối
xứng
của
thông
tin
không
chỉ
bắt
nguồn
từ
quá
trình
nhận
thức
tự
nhiên,
mà
còn
từ
sự
truyền
bá
quá
nhiều
những
ý
tưởng
cá
nhân.
Chúng
tôi
không
cho
rằng
bất
kỳ
một
cá
nhân
hay
tổ
chức
nào
được
quyền
tự
đặt
ra
một
hệ
tư
tưởng.
Chúng
ta
có
quyền
truyền
bá
tư
tưởng
của
mình
nhưng
không
được
lạm
dụng
điều
này
bởi
nó
sẽ
tạo
ra
tính
không
đối
xứng
của
thông
tin,
và
càng
không
được
phép
biến
tình
trạng
này
thành
phổ
biến.
Trái
lại,
chúng
ta
cần
phải
làm
cho
mọi
người
hiểu
rằng
tư
tưởng
là
công
cụ
để
nhận
thức,
và
ngày
nay
mỗi
người
đều
phải
là
nhà
tư
tưởng.
Nói
đúng
hơn,
mỗi
người
phải
trở
thành
nhà
tư
tưởng
của
chính
mình,
của
chính
hành
động
của
mình,
vì
lợi
ích
của
mình.
Vậy
trong
thời
đại
ngày
nay,
cái
gì
sẽ
thay
thế
hệ
tư
tưởng,
khi
nó
không
còn
đóng
vai
trò
chủ
đạo
nữa?
Theo
chúng
tôi,
đó
là
hệ
giá
trị.
Nếu
như
hệ
tư
tưởng
là
tập
hợp
các
tín
điều
thì
hệ
giá
trị
là
tập
hợp
các
tiêu
chuẩn.
Những
đòi
hỏi
của
xã
hội
mới
chính
là
áp
lực
buộc
hệ
tư
tưởng
phải
nhường
chỗ
cho
hệ
giá
trị,
với
tư
cách
là
tác
nhân
định
hướng
tiến
bộ
và
dân
chủ
hơn.
Trái
với
bản
chất
giáo
điều
của
hệ
tư
tưởng,
các
tiêu
chuẩn
luôn
luôn
thay
đổi
cùng
với
cuộc
sống.
Rõ
ràng
việc
thay
đổi
các
tiêu
chuẩn
dễ
dàng
hơn
nhiều
so
với
thay
đổi
các
tín
điều
và
cái
gì
dễ
thay
thế
hơn
thì
nó
thích
hợp
với
cuộc
sống
hơn.
Tóm
lại,
theo
chúng
tôi,
con
người
sẽ
không
bao
giờ
quay
lại
các
hệ
tư
tưởng
mà
sẽ
xây
dựng
một
tập
hợp
các
giá
trị
từ
các
tiêu
chuẩn
thông
thường
của
đời
sống.
Tính
phổ
biến
của
các
giá
trị
sẽ
tạo
nên
hệ
thống
giá
trị,
và
hệ
thống
giá
trị
tạo
ra
sự
đồng
nhất
của
các
giá
trị.
Nói
cách
khác,
hệ
thống
giá
trị
sẽ
là
tư
tưởng
của
đời
sống
hiện
đại.
III.
Toàn
cầu
hoá
và
Sự
hình
thành
hệ
giá
trị
toàn
cầu
Không
ai
có
thể
phủ
nhận
được
rằng
toàn
cầu
hóa
đem
đến
cho
nhân
loại,
cả
những
nước
phát
triển
lẫn
những
nước
chậm
phát
triển,
những
cơ
hội
phát
triển
và
cả
những
thách
thức
vô
cùng
to
lớn.
Ngày
nay,
tất
cả
các
quốc
gia,
do
quá
trình
toàn
cầu
hóa,
có
mặt
trong
nhau,
chịu
ảnh
hưởng
lẫn
nhau.
Chính
trong
quá
trình
toàn
cầu
hóa
mà
thế
giới
bỗng
nhiên
nhận
thức
ra
các
giá
trị
chung
mà
con
người
cần
phải
có
để
chung
sống
và
phát
triển.
Do
đó,
toàn
cầu
hóa
đối
với
lịch
sử
nhân
loại
cũng
có
giá
trị
như
thuyết
tương
đối
của
Einstein
trong
lịch
sử
khoa
học.
Toàn
cầu
hóa
càng
sâu
sắc
bao
nhiêu
thì
hệ
tư
tưởng
sẽ
càng
phải
bộc
lộ
tính
khu
trú
cá
nhân
của
nó.
Ở
đây,
xin
lưu
ý
rằng
cần
phải
phân
biệt
hệ
giá
trị
với
nền
văn
hóa.
Chúng
ta
đều
biết
rằng
mỗi
cộng
đồng
nhỏ
đều
có
bản
sắc
riêng
với
các
giá
trị
văn
hóa
của
mình.
Nhưng
khái
niệm
cộng
đồng
ngày
càng
mở
rộng
nên
sẽ
có
những
tiêu
chí
văn
hóa
khác
nhau,
những
nền
văn
hóa
khác
nhau.
Con
người
chứa
trong
mình
nhiều
hệ
tiêu
chuẩn
văn
hóa
khác
nhau
để
điều
chỉnh
những
đối
tượng
và
quan
hệ
sinh
hoạt
khác
nhau.
Cho
nên
có
thể
nói
rằng
không
có
chuẩn
mực
văn
hóa
cho
sáu
tỷ
người,
trong
khi
đó
nhân
loại
vẫn
luôn
luôn
cần
và
trên
thực
tế
vẫn
tồn
tại
những
chuẩn
mực
chung.
Dĩ
nhiên,
bên
cạnh
chuẩn
mực
chung
còn
có
chuẩn
mực
riêng.
Chuẩn
mực
riêng
để
phân
biệt
người
này
với
người
kia,
cộng
đồng
này
với
cộng
đồng
kia,
còn
chuẩn
mực
chung
là
thứ
để
con
người
chung
sống.
Trong
đời
sống
hằng
ngày,
chuẩn
mực
chung
ngày
càng
cao
lớn
lên
cùng
với
sự
mở
rộng
của
khả
năng
giao
lưu.
Hiện
nay,
các
quốc
gia
đang
phát
triển
mới
chỉ
đặt
ra
nhiệm
vụ
hội
nhập
về
kinh
tế
mà
chưa
quan
tâm
đến
việc
tạo
cho
con
người
năng
lực
hội
nhập
về
mọi
mặt.
Trong
bài
Toàn
cầu
hóa
về
văn
hóa
chúng
tôi
đã
đề
cập
đến
những
tác
động
khác
nhau
của
toàn
cầu
hoá.
Ở
đây
chỉ
xin
nhắc
lại
rằng
toàn
cầu
hóa
về
văn
hóa
đang
làm
lan
truyền
trên
khắp
thế
giới
những
giá
trị
phổ
biến
như
nhân
quyền,
dân
quyền,
dân
chủ,
tự
do...
đồng
thời
cũng
làm
thay
đổi
tính
chất
của
các
quan
hệ
xã
hội.
Khi
đó,
các
dân
tộc,
các
cộng
đồng
giao
lưu
với
nhau
thông
qua
các
hệ
giá
trị,
các
quyền
lợi
và
đặc
biệt
là
các
tiêu
chuẩn
văn
hóa.
Trong
quá
trình
đó,
sự
phổ
biến
các
giá
trị
dân
chủ
là
xu
thế
tất
yếu
và
toàn
cầu
hóa
buộc
các
dân
tộc,
các
tôn
giáo
khác
nhau
phải
ngồi
lại
cùng
nhau
tìm
ra
các
tiêu
chuẩn
chung
sống
của
toàn
nhân
loại.
Kết
luận
Như vậy, giá trị của các hệ tư tưởng chỉ có tính chất tương đối, mang tính lịch sử. Tư tưởng và hệ tư tưởng không phải là những giá trị bất biến, càng không phải là những tín điều để tôn thờ, nó đang và sẽ bị thay thế bởi hệ giá trị, là một hệ thống các tiêu chuẩn để quy định, định hướng và tổ chức hành vi của con người trên phạm vi toàn cầu.
Thế
giới
đang
thay
đổi
từng
ngày,
từng
giờ
và
toàn
cầu
hóa
đang
phổ
biến
khắp
thế
giới
những
thước
đo
mới,
những
tiêu
chuẩn
mới.
Những
tiêu
chuẩn
chung
đó
chính
là
cơ
sở
hình
thành
hệ
giá
trị
toàn
cầu
hệ
giá
trị
sẽ
đóng
vai
trò
chi
phối,
kiểm
soát
hoạt
động
của
con
người.
Vì
thế,
trong
thời
đại
ngày
nay,
nhiệm
vụ
của
các
chính
thể
là
nắm
bắt
sự
hình
thành
của
hệ
giá
trị
và
hướng
sự
phát
triển
của
đất
nước
cho
phù
hợp
với
hệ
giá
trị
đó.
Nguồn[sửa]
- Nguyễn Trần Bạt, Chúng ta.Com