Chủ đề nóng: Phương pháp kỷ luật tích cực - Cổ học tinh hoa - Những thói hư tật xấu của người Việt - Công lý: Việc đúng nên làm - Giáo án Điện tử - Sách giáo khoa - Học tiếng Anh - Bài giảng trực tuyến - Món ăn bài thuốc - Chăm sóc bà bầu - Môi trường - Tiết kiệm điện - Nhi khoa - Ung thư - Tác hại của thuốc lá - Các kỹ thuật dạy học tích cực
- Dạy học phát triển năng lực - Chương trình giáo dục phổ thông
Đọc bản nhạc
Từ VLOS
Âm nhạc là một loại ngôn ngữ đã tồn tại hàng ngàn năm nay, và những ký hiệu trong âm nhạc mà chúng ta dùng ngày nay cũng đã xuất hiện từ hơn 300 năm trước. Ký âm là cách ghi lại âm thanh bằng các ký hiệu, từ những ký hiệu cơ bản về cao độ, trường độ và nhịp điệu, cho tới những ký hiệu phức tạp hơn về biểu cảm, âm sắc và thậm chí cả những hiệu ứng đặc biệt. Bài viết này sẽ giới thiệu những kiến thức cơ bản nhất về cách đọc một bản nhạc, hướng dẫn các phương pháp nâng cao, và đưa ra một số cách để bạn có thể tìm hiểu thêm về chủ đề này.
Mục lục
Các bước[sửa]
Kiến thức Cơ bản[sửa]
-
Hiểu
rõ
khuông
nhạc.
Trước
khi
bạn
bắt
đầu
học
nhạc,
bạn
cần
phải
nắm
được
một
số
kiến
thức
mà
bất
kỳ
ai
cũng
phải
biết
khi
học
nhạc.
Những
đường
kẻ
ngang
trên
bản
nhạc
được
gọi
là
“khuông
nhac”.
Đây
là
ký
hiệu
âm
nhạc
cơ
bản
nhất
và
là
nền
tảng
cho
tất
cả
mọi
thứ
trong
âm
nhạc.
- Khuông nhạc bao gồm năm dòng kẻ ngang song song, ở giữa chúng đều có khoảng cách (gọi là khe). Cả dòng kẻ và các khe đều được đánh số để dễ ghi nhớ, và luôn được đánh thứ tự từ thấp (đáy khuông nhạc) đến cao (đỉnh khuông nhạc).
-
Hãy
bắt
đầu
với
Khóa
Treble.
Một
trong
số
những
điều
đầu
tiên
bạn
sẽ
gặp
khi
học
nhạc,
đó
là
“Khóa
nhạc”.
Ký
hiệu
uốn
lượn
ở
đầu
bên
trái
của
khuông
nhạc
đó
sẽ
cho
bạn
biết
cữ
âm
của
bản
nhạc
cần
chơi.
Mọi
loại
nhạc
cụ
và
giọng
hát
ở
âm
vực
cao
đều
thuộc
cữ
âm
của
khóa
Treble.
Trong
bài
viết
cơ
bản
về
cách
đọc
bản
nhạc
này,
chúng
ta
sẽ
chỉ
sử
dụng
khóa
Treble
trong
mọi
ví
dụ.
- Khóa Treble, hay còn gọi là khóa Sol, được bắt nguồn và cách điệu từ chữ G trong tiếng La-tinh. Có một cách rất hay để nhớ điều này, đó là nét uốn tròn ở chính giữa khóa Sol có hình dạng giống chữ G. Khi ghi các nốt nhạc vào khuông nhạc có khóa Sol, chúng sẽ có thứ tự như sau:
- Năm dòng kẻ, tính từ dưới lên, sẽ ghi những nốt nhạc sau: E G B D F.
- Bốn khe, tính từ dưới lên, sẽ ghi những nốt nhạc sau: F A C E.
- Điều này có thể hơi khó nhớ, nhưng bạn có thể áp dụng một số mẹo sau để ghi nhớ dễ dàng hơn. Đối với những nốt nhạc nằm trên dòng kẻ, bạn có thể ghi nhớ câu: “Em Gọi Bạn Đi Fượt”. Đối với những nốt nhạc nằm ở khe, bạn có thể nhớ là: “Fải Ăn Cùng Em”. Luyện tập với công cụ nhận diện nốt nhạc trực tuyết cũng là một cách tuyệt vời để nhớ được thứ tự này.
-
Nắm
được
kiến
thức
về
Khóa
Bass.
Khóa
Bass
hay
còn
gọi
là
khóa
Fa,
được
sử
dụng
với
những
nhạc
cụ
có
quãng
âm
thấp
hơn,
ví
dụ
như
phần
đệm
tay
trái
của
đàn
piano,
đàn
guitar
bass,
kèn
trombone...
- Khóa Fa có nguồn gốc từ chữ F trong nhóm ngôn ngữ Gothic. Hai dấu chấm của khóa Fa sẽ nằm ở hai khe trên và dưới dòng kẻ của nốt Fa trên khuông nhạc. Khuông nhạc chứa khóa Fa sẽ có thứ tự các nốt khác với khóa Sol.
- Năm dòng kẻ, tính từ dưới lên trên, sẽ ghi các nốt sau: G B D F A (“Gọi Bạn Đi Fượt À?”).
- Bốn khe, tính từ dưới lên trên, sẽ ghi các nốt sau: A C E G (“Ăn Cùng Em Gái.”).
-
Học
về
các
bộ
phận
của
một
nốt
nhạc.
Một
nốt
nhạc
bao
gồm
tối
đa
3
bộ
phận:
Đầu,
thân
và
đuôi.
- Đầu nốt nhạc. Đây là một hình bầu dục được để trống (trắng) hoặc tô kín (đen). Chức năng cơ bản nhất của nó là báo cho nhạc công biết họ sẽ chơi nốt nào trên nhạc cụ của mình.
- Thân nốt nhạc. Đây là một đường thẳng được vẽ liền với đầu nốt nhạc. Nếu thân nốt nhạc hướng lên trên, nó sẽ được vẽ ở phía bên phải đầu nốt nhạc Nếu thân nốt nhạc hướng xuống dưới, nó sẽ được vẽ ở phía bên trái đầu nốt nhạc. Hướng của thân nốt nhạc không có ảnh hưởng gì tới nốt nhạc đó, nhưng nó khiến các nốt dễ đọc hơn và nhìn đỡ rối mắt hơn.
- Quy tắc chung khi vẽ thân nốt nhạc là: đối với các nốt nhạc nằm từ dòng kẻ thứ ba trở lên, thân nốt nhạc sẽ hướng xuống dưới, và đối với các nốt nhạc nằm dưới dòng kẻ thứ ba, thân nốt nhạc sẽ hướng lên trên.
- Đuôi nốt nhạc. Đây là một nét uốn lượn được vẽ tại đầu còn lại của thân nốt nhạc. Dù thân nốt nhạc đang ở bên trái hay bên phải của nốt nhạc, phần đuôi “luôn” được vẽ ở phía bên phải phần thân chứ không bao giờ ở bên trái.
- Ba bộ phận đầu, thân và đuôi nốt nhạc sẽ cho nhạc công biết mỗi nốt nhạc có giá trị như thế nào về mặt nhịp phách. Khi bạn nghe nhạc và bạn giậm chân nhịp nhàng với giai điệu, bạn đã nắm bắt được nhip điệu của bản nhạc đó.
Nhịp và Phách[sửa]
-
Học
về
vạch
nhịp.
Trong
bản
nhạc,
bạn
sẽ
thấy
có
những
đường
chia
khuông
nhạc
những
quãng
đều
nhau.
Những
vạch
đó
thể
hiện
một
“ô
nhịp”.
Khoảng
trống
ở
trước
vạch
thứ
nhất
là
ô
nhịp
đầu
tiên.
Khoảng
trống
giữa
vạch
thứ
nhất
và
vạch
thứ
hai
là
ô
nhịp
thứ
hai,
và
cứ
tiếp
tục
như
vậy.
Các
vạch
nhịp
không
ảnh
hưởng
gì
đến
bản
nhạc,
nhưng
chúng
giúp
người
biểu
diễn
dễ
theo
dõi
bản
nhạc
hơn.
- Như hình dưới đây, chúng ta thấy các ô nhịp đều có “một số nhịp giống nhau”. Ví dụ, khi bạn gõ “1-2-3-4” theo giai điệu một bài hát, bạn đã vô tình gõ đúng theo ô nhịp của nó.
-
Học
về
nhịp,
hoặc
số
nhịp.
Nhịp
là
nhịp
điệu
của
bài
hát.
Bạn
có
thể
cảm
nhận
được
nó
một
cách
tự
nhiên
khi
bạn
nghe
nhạc
pop
hoặc
nhạc
dance,
đó
là
âm
thanh
“bùm,
chát,
bùm,
chát”
hoặc
một
bài
nhạc
dance
kinh
điển
cũng
có
thể
minh
họa
rõ
về
nhịp.
- Trên bản nhạc, nhịp được thể hiện bằng một ký hiệu giống như một phân số ở ngay bên cạnh khóa nhạc. Cũng như một phân số, nó có tử số và mẫu số. Tử số được viết tại hai dòng trên cùng của khuông nhạc, nó cho biết có bao nhiêu phách trong một nhịp. Mẫu số cho biết một phách (mỗi lần giậm chân) có giá trị kéo dài bằng bao nhiêu nốt nhạc (nốt đen).
- Nhịp 4/4 có lẽ là loại nhịp dễ hiểu nhất, hoặc “phổ biến” nhất. Đối với nhịp 4/4, mỗi ô nhịp sẽ có 4 nhịp và mỗi nhịp tương đương với một phách. Đây là loại nhịp bạn thường gặp trong các bản nhạc khá thịnh hành. Bạn có thể đếm theo nhịp này bằng cách gõ “1-2-3-4” theo đúng nhịp bài hát.
- Khi thay đổi tử số, chúng ta sẽ thay đổi số phách trong một nhịp. Một loại nhịp khá phổ biến khác là nhịp ¾. Ví dụ, phần lớn các điệu nhạc waltz (nhạc van-sơ) sẽ có nhịp “1-2-3 1-2-3” đều đặn, nên chúng có 3 phách trong một ô nhịp.
- Một số nhịp sẽ được hiển thị bằng chữ C thay vì hai con số. Nhịp 4/4 thường được thể hiện là một chữ C lớn có nghĩa là nhịp Thường. Cũng như vậy, nhịp 2/4 mét được thể hiện dưới dạng một chữ C lớn với đường kẻ dọc qua nó. Chữ C với đường kẻ qua nó là biểu thị của nhịp Ngắt.
Nhịp điệu[sửa]
-
Hãy
cảm
nhận
nhịp
điệu.
Cũng
như
nhịp
và
phách,
“nhịp
điệu”
là
một
phần
quan
trọng
đối
với
sắc
thái
của
một
bản
nhạc.
Tuy
nhiên,
trong
khi
nhịp
phách
chỉ
cho
bạn
biết
số
nhịp
của
bản
nhạc,
nhịp
điệu
sẽ
cho
bạn
biết
các
nhịp
được
sắp
xếp
thế
nào.
- Hãy thử làm việc này: gõ ngón tay xuống mặt bàn, rồi đếm 1-2-3-4 1-2-3-4 đều đặn. Không thú vị lắm, phải không? Giờ hãy thử việc này: ở nhịp 1 và 3, gõ mạnh hơn, ở nhịp 2 và 4 thì gõ nhẹ hơn. Vậy là nghe đã rất khác rồi. Giờ hãy thử ngược lại: gõ mạnh ở nhịp 2 và 4, gõ nhẹ ở nhịp 1 và 3.
- Hãy thử nghe bài hát của Regina Spektor: Don't Leave Me. Bạn có thể nghe được nhịp điệu rất rõ ràng: tiếng trống (bùm) sẽ đập nhẹ hơn ở nhịp 1 và 3, và tiếng vỗ to (chát) sẽ nằm ở nhịp 2 và 4. Bạn sẽ hiểu các âm thanh được sắp xếp như thế nào. Đó chính là nhịp điệu.
-
Hãy
tưởng
tượng
mình
đang
đi
bộ.
Mỗi
bước
chân
sẽ
là
một
nhịp.
Những
nhịp
đó
được
thể
hiện
bằng
nốt
đen,
bởi
vì
trong
âm
nhạc
phương
Tây
(nghĩa
là
toàn
bộ
âm
nhạc
ở
khu
vực
đó
chứ
không
chỉ
riêng
nhạc
của
Hank
Willian),
mỗi
ô
nhịp
đều
có
bốn
nhịp
tương
đương
với
bốn
nốt
đen.
Nhịp
điệu
trong
bước
chân
của
bạn
sẽ
như
thế
này:
- Mỗi bước chân là một nốt đen. Trên bản nhạc, nốt đen là một nốt có màu đen, có thân và không có đuôi. Bạn có thể đếm theo từng bước chân theo nhịp “1, 2, 3, 4 – 1, 2, 3, 4”.
- Nếu bạn giảm tốc độ xuống bằng một nửa, nghĩa là bạn chỉ bước 1 bước vào nhịp 1 và một bước vào nhịp 3, các bước đó sẽ được ký hiệu bằng nốt trắng (có giá trị bằng nửa ô nhịp). Trong bản nhạc, nốt trắng trông giống nốt đen nhưng chúng không được tô đen mà để trắng phần đầu nốt nhạc.
- Nếu bạn đi chậm hơn nữa, nghĩa là cứ mỗi bốn nhịp thì bạn chỉ bước một bước vào nhịp 1, bạn sẽ ký hiệu bước đó bằng nốt tròn – mỗi ô nhịp một nốt. Trên bản nhạc, nốt tròn trông giống như một chữ O hoặc một chiếc bánh rán vòng, hơi giống nốt đen nhưng không có thân.
-
Hãy
tăng
tốc
độ
lên!
Đi
chậm
vậy
là
đủ
rồi.
Như
bạn
đã
thấy,
khi
chúng
ta
đi
chậm
lại,
các
nốt
nhạc
sẽ
mất
dần
các
bộ
phận.
Đầu
tiên,
chúng
ta
bỏ
màu
khỏi
đầu
nốt
nhạc,
sau
đó,
chúng
ta
bỏ
thân
nốt
nhạc.
Giờ
hãy
thử
tăng
nhịp
điệu
lên.
Để
làm
vậy,
chúng
ta
sẽ
thêm
các
bộ
phận
cho
nốt
nhạc.
- Hãy quay lại với nhịp bước chân như lúc nãy, và hãy tưởng tượng nó trong đầu (hoặc bạn có thể gõ tay xuống bàn). Hãy tưởng tượng xe buýt vừa đến nơi, và bạn còn cách bến xe một đoạn nữa. Bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ chạy. Khi bạn chạy, bạn như kiểu “mọc thêm chân” để đuổi theo xe buýt.
- Để khiến nhịp điệu của bản nhạc trở nên nhanh hơn, chúng ta sẽ vẽ thêm đuôi cho các nốt nhạc. Mỗi chiếc đuôi sẽ làm giảm một nửa giá trị của nốt nhạc. Ví dụ, nốt móc đơn (có một chiếc đuôi) có giá trị bằng nửa nốt đen; và nốt móc đôi/ móc kép (có hai chiếc đuôi) sẽ có giá trị bằng nửa nốt móc đơn. Khi bạn đi bộ, tăng nhịp điệu là khi bạn chuyển từ đi bộ (nốt đen) sang chạy (nốt móc đơn) – nhanh gấp đôi so với đi bộ, rồi sang chạy nước rút (nốt móc đôi) – nhanh gấp đôi lúc chạy.
-
Chùm
các
nốt.
Như
bạn
thấy
ở
các
ví
dụ
trên,
mọi
thứ
sẽ
trở
nên
khá
rối
rắm
nếu
trên
trang
giấy
có
một
loạt
các
nốt
nhạc
như
thế.
Bạn
sẽ
cảm
thấy
mắt
mình
như
bị
lác
và
hoàn
toàn
mất
dấu
vị
trí
đoạn
nhạc
mình
đang
chơi.
Để
nhóm
các
nốt
nhạc
thành
những
tập
hợp
gọn
gàng
và
dễ
nhìn
hơn,
chúng
ta
sẽ
dùng
tới
các
“chùm
nốt”.
- Các chùm nốt chỉ đơn giản là: bạn thay đuôi của các nốt nhạc đơn lẻ thành một đường kẻ ngang đậm nối thân các nốt lại với nhau. Các nốt được kết thành chùm theo quy tắc logic nhất định. Các bản nhạc phức tạp sẽ có các quy tắc phức tạp hơn. Với mục đích của bài viết này, chúng ta sẽ chỉ nghiên cứu về chùm các nốt đen. Hãy so sánh ví dụ dưới đây với ví dụ phía trên. Hãy gõ ngón tay theo nhịp điều và xem các chùm nốt đã khiến bản nhạc dễ đọc hơn cỡ nào.
-
Tìm
hiểu
giá
trị
của
dấu
nối
và
dấu
chấm
dôi.
Khi
thêm
đuôi,
giá
trị
của
một
nốt
nhạc
sẽ
giảm
đi
một
nửa,
còn
khi
thêm
dấu
chấm
dôi,
giá
trị
của
nốt
nhạc
sẽ
tăng
thêm
một
nửa.
Ngoại
trừ
một
số
trường
hợp
ngoại
lệ
mà
chúng
ta
sẽ
không
nhắc
tới
ở
đây,
dấu
chấm
dôi
luôn
nằm
ở
bị
trí
bên
phải
đầu
nốt
nhạc.
Khi
bạn
thấy
nốt
nhạc
có
dấu
chấm
dôi,
giá
trị
của
nốt
nhạc
đó
sẽ
tăng
gấp
rưỡi
so
với
giá
trị
ban
đầu
của
nó.
- Ví dụ, một nốt trắng có dấu chấm dôi sẽ có giá trị bằng nốt trắng cộng thêm một nốt đen. Một nốt đen có dấu chấm dôi sẽ có giá trị bằng một nốt đen cộng một nốt móc đơn.
- Dấu nối cũng gần giống dấu chấm dôi – chúng làm tăng giá trị của nốt nhạc. Dấu nối là một đường cong nối phần đầu của hai nốt nhạc với nhau. Khác với tính chất trừu tượng và có giá trị phụ thuộc vào nốt mà nó ở cạnh của dấu chấm dôi, dấu nối rất dễ hiểu: giá trị của nốt nhạc sẽ được kéo dài bằng đúng giá trị của nốt thứ hai.
- Một lí do khác để sử dụng dấu nối thay vì dấu chấm dôi là khi giá trị của nốt nhạc bị thừa trong ô nhạc. Lúc đó, bạn chỉ cần dùng thêm một nốt nhạc bằng đúng phần giá trị bị thừa và dùng một dấu nối giữa hai nốt nhạc đó là được.
- Luôn ghi nhớ là dấu nối được đặt giữa đầu của hai nốt nhạc, ở vị trí đối lập với đuôi nốt nhạc.
-
Dấu
lặng.
Vài
người
cho
rằng:
âm
nhạc
chỉ
là
một
tổ
hợp
của
các
nốt
nhạc,
họ
chỉ
nói
đúng
một
nửa.
Âm
nhạc
là
một
chuỗi
các
nốt
nhạc
và
cả
những
khoảng
lặng
giữa
chúng.
Đó
chính
là
các
“dấu
lặng”,
và
nhờ
có
chúng,
âm
nhạc
mới
có
cảm
xúc
và
sức
sống.
Hãy
xem
chúng
được
ký
hiệu
như
thế
nào.
- Cũng như các nốt nhạc, các dấu lặng cũng có các ký hiệu riêng cho từng trường độ. Một dấu lặng tròn là một hình chữ nhật đen nằm ngay dưới dòng kẻ thứ tư. Dấu lặng đen là hình chữ nhật đen nằm ngay trên dòng kẻ thứ ba. Dấu lặng đơn là một nét gãy. Các dấu lặng còn lại bao gồm một nét gãy với số đuôi tương tương với giá trị của nốt nhạc có cùng số đuôi. Đuôi dấu lặng luôn hướng về phía bên trái.
Giai điệu[sửa]
- Chúng ta đã nắm được một số điều cơ bản: khuông nhạc, các bộ phận của nốt nhạc, cách ghi nốt nhạc và dấu lặng. Hãy hiểu kĩ những kiến thức trên và bắt đầu đi vào phần thú vị nhất: đọc bản nhạc!
-
Học
về
thang
âm
Đô
trưởng.
Thang
âm
Đô
trưởng
là
thang
âm
cơ
bản
trong
âm
nhạc
phương
Tây.
Phần
lớn
các
thang
âm
mà
bạn
sắp
học
đều
bắt
nguồn
từ
đây.
Khi
bạn
đã
ghi
nhớ
được
nó,
bạn
sẽ
dễ
dàng
nắm
bắt
được
phần
còn
lại.
- Đầu tiên, hãy xem thang âm này trông thế nào, sau đó là tới cách đọc hiểu nó và đọc hiểu một bản nhạc. Trong bản nhạc, trông nó sẽ thế này. Hãy xem “thang âm Đô trưởng” ở hình trên.
- Nhìn vào nốt nhạc đầu tiên, nốt Đô trầm, bạn sẽ thấy nó nằm dưới khuông nhạc. Lúc đó, chỉ cần thêm một dòng kẻ phụ riêng cho nốt đó – vì vậy, nốt Đô trầm có một dòng kẻ nhỏ qua đầu nốt nhạc. Nốt nhạc càng trầm thì càng có nhiều dòng kẻ phụ. Nhưng hiện tại, chúng ta sẽ không cần quan tâm tới việc đó.
- Thang âm Đô trưởng có tám nốt nhạc. Những nốt nhạc này tương đương với các phím trắng trên đàn piano.
- Bạn có thể đã có hoặc chưa có đàn piano, nhưng lúc này, một cây đàn lại rất quan trọng để bạn không chỉ nhận ra các nốt nhạc trông như thế nào mà còn “nghe” như thế nào nữa.
-
Bạn
có
thể
tập
đọc
nốt
nhạc
(thị
tấu)
–
hay
còn
gọi
là
“xướng
âm”.
Nghe
thì
có
vẻ
“bác
học”
nhưng
có
thể
bạn
cũng
đã
biết
nó
rồi:
đó
chỉ
là
cách
chúng
ta
hát
các
nốt
“Đồ,
Rê,
Mí”
thôi.
- Bằng cách xướng âm, kĩ năng đọc nốt nhạc của bạn sẽ được nâng cao – kĩ năng này có thể mất cả đời để hoàn thiện, nhưng nó đã có ích ngay từ lúc bạn bắt đầu tập luyện rồi. Hãy nhìn lại âm giai Đô trưởng đã được bổ sung thêm tên các nốt nhạc. Hãy xem hình minh họa “Thang âm Đô trưởng 11”.
- Có thể bạn đã biết bài hát “Do-Re-Mi” của Rogers và Hammerstein trong bộ phim “The Sound of Music”. Nếu bạn có thể hát được theo thang âm Đô trưởng, hãy vừa hát vừa nhìn vào các nốt nhạc. Nếu bạn cần tìm hiểu thêm, hãy nghe bài hát này tại YouTube.
- Đây là bài luyện tập ở trình độ cao hơn, nâng và hạ cao độ khi xướng âm theo thang âm Đô trưởng. Hãy xem “Xướng âm thang âm Đô trưởng 1” ở trên.
- Tập xướng âm – phần II vài lần cho tới khi bạn đã nắm chắc kĩ thuật này. Trong vài lần đầu tiên, hãy làm thật chậm để bạn có thể nhìn từng nốt nhạc khi hát. Trong những lần sau, hãy thay các chữ “do re mi” bằng ký hiệu C, D, E. Mục tiêu là bạn phải hát được đúng cao độ.
- Hãy nhớ giá trị nốt nhạc mà chúng ta vừa đề cập lúc nãy: Nốt Đô cao ở cuối dòng kẻ đầu tiên, và nốt Đô trầm ở cuối dòng kẻ thứ hai đều là nốt trắng, các nốt còn lại đều là nốt đen. Nếu bạn tưởng tượng mình đang đi bộ, cứ mỗi nốt nhạc là một bước chân. Nốt trắng sẽ tương đương hai bước chân.
- Xin chúc mừng! Bạn đã biết cách đọc bản nhạc!
Dấu thăng, Dấu giáng, Dấu bình và Dấu hóa[sửa]
-
Hãy
đi
tới
bước
tiếp
theo.
Chúng
ta
đã
học
những
kiến
thức
cơ
bản
nhất
về
nhịp
điệu
và
giai
điệu,và
bạn
cũng
đã
có
thể
nắm
được
những
điều
cơ
bản
nhất
về
các
dấu
chấm
dôi
và
dấu
nghỉ.
Như
thế
này
là
đủ
để
bạn
tham
gia
lớp
sáo
flutophone
cơ
bản,
tuy
nhiên
vẫn
còn
vài
điều
mà
bạn
nên
biết.
Một
trong
số
đó
là
các
dấu
hóa.
- Có thể bạn đã từng nhìn thấy dấu thăng và dấu giáng trong bản nhạc: dấu thăng nhìn giống ký hiệu hash tag (♯) và dấu giáng nhìn giống chữ B viết thường (♭). Chúng sẽ được đặt ở bên trái của nốt nhạc, và cho biết nốt nhạc đó sẽ được nâng lên (dấu thăng) hoặc hạ xuống (dấu giáng) nửa cao độ. Thang âm Đô trưởng, như ta đã biết, bao gồm các phím trắng trên đàn piano. Các nốt thăng và giáng chính là các phím đen. Vì gam Đô trưởng không có dấu thăng hoặc giáng, nó sẽ được viết như thế này:
-
Cung
và
nửa
cung.
Trong
âm
nhạc
phương
Tây,
các
nốt
nhạc
sẽ
cách
nhau
một
cung
hoặc
nửa
cung.
Hãy
nhìn
phím
Đô
trên
đàn
piano,
bạn
sẽ
thấy
giữa
nó
và
phím
Rê
có
một
phím
đen.
Khoảng
cách
cao
độ
giữa
Đô
và
Rê
được
gọi
là
một
cung.
Khoảng
cách
giữa
Đô
và
phím
đen
đó
là
nửa
cung.
Bạn
có
thể
thắc
mắc
không
biết
phím
đen
đó
được
gọi
là
gì?
Câu
trả
lời
là:
“Còn
tùy”.
- Có một quy tắc rất dễ hiểu: nếu bạn đang nâng dần cao độ, đó sẽ là nốt thăng của nốt liền trước; nếu bạn hạ dần cao độ, đó sẽ là nốt giáng của nốt liền sau. Vì vậy, nếu bạn lần lượt đi từ Đô lên Rê, bạn sẽ sử dụng dấu thăng (♯).
- Trong trường hợp đó, phím đen sẽ là nốt Đô thăng (C#). Khi hạ dần cao độ, từ Rê xuống Đô, bạn sẽ sử dụng dấu giáng (♭).
- Những quy ước đó sẽ khiến bản nhạc dễ đọc hơn. Nếu bạn định viết ba nốt nhạc cao dần, và đã dùng nốt D♭ thay vì nốt C#, bạn có thể viết dấu bình (♮) ngay bên cạnh nốt Rê thứ ba.
- Ở đây, chúng ta có một ký hiệu mới – dấu bình. Khi bạn nhìn thấy dấu bình (♮), điều đó nghĩa là dấu thăng hoặc giáng của nốt nhạc đó đã bị hủy hiệu lực. Trong ví dụ này, nốt thứ hai và thứ ba đều là nốt Rê: đầu tiên là nốt Rê giáng (D♭), vì thế, nốt Rê thứ hai – sau khi đã được nâng lên nửa cung so với nốt Rê trước, phải có một ký hiệu để quay trở lại cao độ bình thường. Một bản nhạc càng có nhiều dấu thăng và giáng, nhạc công càng phải chú ý trước khi chơi nhạc.
- Thông thường, các nhạc sỹ vô tình dùng nhầm dấu hóa sẽ thêm các dấu bình “không cần thiết” để nhạc công dễ hiểu bản nhạc hơn. Ví dụ, nếu ở gam Rê trưởng, nhạc sỹ đã sử dụng nốt La thăng (A#) thì nốt La tiếp theo có thể được thêm vào một dấu bình.
-
Hiểu
các
âm
giai.
Chúng
ta
đã
biết
thang
âm
Đô
trưởng:
bao
gồm
8
nốt
nhạc,
đều
là
các
phím
trắng
bắt
đầu
từ
nốt
Đô.
Tuy
nhiên,
bạn
có
thể
bắt
đầu
một
âm
giai
từ
“bất
kỳ”
nốt
nào.
Nếu
bạn
chỉ
chơi
các
phím
trắng,
đó
không
phải
là
âm
giai
trưởng
mà
là
“thể
nhạc”
-
điều
này
không
nằm
trong
phạm
vi
của
bài
viết.
- Nốt đầu tiên, hay còn gọi là “âm chủ”, chính là tên của hợp âm. Có thể bạn đã từng nghe ai đó nói “bài này chơi ở hợp âm Đô trưởng” hoặc tương tự như vậy. Ví dụ này cho thấy: thang âm đó bắt đầu bằng nốt C và bao gồm các nốt nhạc C D E F G A B C. Các nốt nhạc thuộc các thang âm trưởng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Hãy nhìn vào phím đàn trên.
- Hãy nhớ là hầu hết các nốt nhạc đều cách nhau một cung. Nhưng giữa các nốt E và F, B và C chỉ có nửa cung thôi. Phần lớn các thang âm trưởng đều có quy tắc này: một – một – nửa – một – một – một – nửa. Nếu bạn bắt đầu một thang âm từ nốt G, nó sẽ được viết như sau:
- Hãy để ý nốt F# gần phía trên cùng. Để sắp xếp theo đúng thứ tự, nốt F phải được nâng lên nửa cung để cách nốt G đúng nửa cung thay vì một cung. Những âm giai như vậy thường rất dễ đọc. Nhưng nếu bạn bắt đầu một thang âm từ nốt C# thì sao? Nó sẽ như thế này:
- Mọi thứ bắt đầu phức tạp lên rồi. Để bản nhạc đỡ rối rắm và dễ đọc hơn, dấu hóa đã ra đời. Mỗi thang âm trưởng đều có một bộ dấu thăng và giáng cố định, và chúng sẽ được ghi ở đầu bản nhạc. Hãy nhìn vào âm giai G, ta sẽ thấy có một nốt thăng – F#. Thay vì đặt dấu thăng bên cạnh mọi nốt F trong bản nhạc, ta sẽ đặt dấu thăng ở ngay đầu bên trái của khuông nhạc. Điều đó có nghĩa là mọi nốt F trong bản nhạc này sẽ là nốt F#. Trông nó như thế này:
- Đoạn nhạc này có giai điệu và cách chơi giống hệt thang âm G không chứa dấu hóa ở trên. Hãy xem phần Bảng Âm giai dưới đây để biết các loại âm giai.
Cường độ và Sắc thái[sửa]
-
Hãy
trở
nên
sôi
động
hoặc
êm
diu.
Khi
bạn
nghe
nhạc,
bạn
sẽ
nhận
ra
không
phải
lúc
nào
bản
nhạc
đó
cũng
có
âm
lượng
đều
đều.
Có
đoạn
âm
lượng
rất
lớn
và
có
đoạn
nghe
rất
êm
diu.
Đó
gọi
là
“cường
độ”.
- Nếu giai điệu và nhịp là trái tim của một bản nhạc, còn các nốt nhạc và hợp âm là bộ não thì cường độ chính là giọng của bản nhạc. Hãy xem ví dụ đầu tiên.
- Hãy gõ lên bàn: 1 và 2 và 3 và 4 và 5 và 6 và 7 và 8… (“và” là từ các nhạc sỹ hay thêm vào khi đọc nhịp). Hãy đập nhịp với âm lượng đều nhau sao cho nghe như tiếng quạt trực thăng. Giờ hãy xem ví dụ thứ hai.
- Hãy để ý tới ký hiệu dấu nhấn (>) đặt ở phía trên các nốt C thứ tư. Lần này hãy gõ nhịp mạnh vào các nhịp có dấu nhấn. Thay vì nghe như tiếng quạt trực thăng, nghe các nhịp giống với tiếng tàu hỏa chạy hơn. Chỉ cần thay đổi dấu nhấn, tính chất của bản nhạc đã trở nên khác hẳn.
-
Hãy
chơi
thật
êm
dịu
hoặc
mạnh
mẽ,
hoặc
ở
giữa
hai
thái
cực
đó.
Cũng
như
việc
bạn
không
bao
giờ
nói
với
nhịp
điệu
đều
đều,
bạn
thường
nói
to
hơn
hoặc
bé
hơn
tùy
từng
trường
hợp,
âm
nhạc
cũng
có
sự
thay
đổi
cường
độ
như
vậy.
Các
nhà
soạn
nhạc
thường
sử
dùng
những
ký
hiệu
cường
độ
để
đánh
dấu.
- Bạn có thể trông thấy hàng tá ký hiệu cường độ trong một bản nhạc, nhưng một số ký hiệu thường thấy nhất là các chữ cái f, m, và p.
- p nghĩa là "piano," hoặc là "nhẹ."
- f nghĩa là "forte," hoặc "mạnh."
- m nghĩa là "mezzo," or "vừa." Nó sẽ làm thay đổi kiểu cường độ theo sau nó, như trong mf hoặc mp, nghĩa là "mạnh vừa," hoặc "nhẹ vừa."
- Bản nhạc càng có nhiều p hoặc f thì bạn càng phải chơi nhạc nhẹ nhàng hoặc mạnh mẽ hơn. Hãy thử hát đoạn nhạc ví dụ trên (sử dụng phương pháp xướng âm – nốt nhạc đầu tiên trong ví dụ này là nốt chủ đạo), và tăng hoặc giảm cường độ như ký hiệu để thấy sự khác biệt.
-
Hãy
chơi
nhạc
to
dần
hoặc
nhỏ
dần.
Một
ký
hiệu
cường
độ
thông
dụng
khác
chính
là
“cresendo”
-
chơi
to
dần,
và
ngược
lại
là
“decrescendo
–
chơi
nhỏ
dần.
Chúng
cho
biết
cường
độ
được
tăng
hoặc
giảm
dần
đều
và
trông
như
các
kí
hiệu
"<"
và
">"
bị
bẹt.
- Crescendo cho biết âm lượng tăng dần đều, và decrescendo cho biết âm lượng sẽ giảm dần đều. Bạn sẽ nhận thấy: với hai ký hiệu này, phần “mở” của ký hiệu sẽ thể hiện đoạn nhạc có cường độ lớn, còn phần “đóng” sẽ thể hiện cường độ nhỏ hơn. Ví dụ, nếu bản nhạc cho thấy bạn cần chơi nhạc với cường độ từ mạnh tới nhẹ, bạn sẽ thấy ký hiệu f', rồi tới ký hiệu ">", và cuối cùng là 'p'.
Nâng cao[sửa]
- Hãy tiếp tục học hỏi! Học cách đọc nhạc cũng như học bảng chữ cái. Tuy bạn sẽ mất chút thời gian để học các kiến thức cơ bản, nhưng nhìn chung, chúng khá dễ. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều sắc thái, khái niệm và kỹ năng bạn cần phải học, và bạn sẽ phải học cả đời. Một số nhà soạn nhạc còn đạt tới trình độ sáng tác được trên các khuông nhạc xoắn ốc hoặc có hình thù kì lạ, hoặc thậm chí là chẳng cần tới khuông nhạc. Bài viết này sẽ giúp bạn có một nền tảng phát triển tốt.
Bảng Âm giai[sửa]
-
Hãy
học
các
âm
giai
này.
Ít
nhất
là
một
âm
giai
cho
từng
nốt
nhạc
trong
thang
âm
–
có
vài
người
sẽ
nhận
ra
rằng:
trong
vài
trường
hợp,
có
tới
hai
âm
giai
cho
cùng
một
nốt
nhạc.
Ví
dụ,
nốt
G#
nghe
giống
hệt
nốt
A♭.
Khi
chơi
piano
–
và
cũng
do
giới
hạn
của
bài
viết
này,
sự
khác
biệt
đó
không
rõ
ràng.
Tuy
nhiên,
vài
nhà
soạn
nhạc
–
nhất
là
các
nhà
soạn
nhạc
cho
bộ
dây
–
sẽ
cho
rằng
A♭
cao
hơn
G#
một
chút.
Đây
là
những
âm
giai
dành
cho
các
thang
âm
trưởng:
- Âm giai C (hoặc phi chủ âm)
- Các âm giai với dấu thăng: G, D, A, E, B, F♯, C♯
- Các âm giai với dấu giáng: F, B♭, E♭, A♭, D♭, G♭, C♭
- Như bạn có thể thấy, khi sử dụng âm giai với dấu thăng, bạn sẽ thêm dấu thăng vào từng nốt một cho tới khi tất cả các nốt nhạc đều được thăng ở âm giai C♯. Khi sử dụng âm giai với dấu giáng, bạn sẽ thêm dấu giáng vào từng nốt một cho tới khi tất cả các nốt nhạc đều được giáng ở âm giai C♭.
- Một tin tốt lành là các nhà soạn nhạc cũng thường sáng tác ở các âm giai dễ đọc. Âm giai D trưởng được sử dụng rất phổ biến đối với các nhạc cụ bộ dây, vì các dây buông thường có âm rất gần với nốt D. Có một số tác phẩm dành cho bộ dây được viết ở E♭ thứ hoặc dành cho bộ đồng ở E trưởng. Tuy nhiên, viết và đọc những bản nhạc đó rất khó.
Lời khuyên[sửa]
- Nếu bạn có bản nhạc mà không thể nhớ được các nốt, hãy bắt đầu bằng cách viết tên nốt ở dưới các nốt nhạc. Đừng làm như vậy thường xuyên. Bạn sẽ phải nhớ được tên các nốt nhạc sau này.
- Hãy tìm các bản nhạc của những bài hát mà bạn thích. Hãy đến thư viện hoặc các cửa hàng chuyên về âm nhạc, và bạn sẽ tìm thấy hàng trăm – nếu không muốn nói là hàng ngàn – các bản nhạc có lời với những ký âm và hợp âm cơ bản. Hãy đọc bản nhạc khi đang nghe bài hát đó, và bạn sẽ chóng hiểu những gì mình đang đọc hơn.
- Hãy vui vẻ khi học nhạc. Nếu bạn không thích nó thì bạn sẽ rất khó nắm bắt.
- Hãy kiên nhẫn. Cũng như việc học một ngoại ngữ mới, học nhạc cũng cần có thời gian. Và cũng như học bất kỳ điều gì khác, bạn càng luyện tập nhiều thì nó càng dễ dàng, và bạn sẽ càng giỏi hơn.
- Hãy luyện tập kỹ năng xướng âm. Bạn không cần phải có giọng hát hay, nhưng nó sẽ giúp bạn có kỹ năng “nghe” được những nốt nhạc ghi trên giấy.
- Hãy luyện tập khi xung quanh đang yên tĩnh hoặc tìm một nơi yên tĩnh. Tốt nhất, bạn nên tập trên đàn piano vì nó rất dễ chơi. Nếu bạn không có piano, hãy dùng một phần mềm chơi piano trực tuyến. Khi bạn đã nắm được vấn đề, bạn sẽ chơi được các nhạc cụ khác. Hy vọng điều này sẽ có ích.
- Hãy luyện tập với loại nhạc cụ chủ đạo của bạn. Nếu bạn chơi piano, bạn có thể đã biết cách đọc một bản nhạc. Tuy nhiên, nhiều người chơi guitar lại học bằng cách nghe thay vì đọc. Khi bạn học cách đọc một bản nhạc, hãy quên đi những gì bạn đã biết – hãy học cách đọc nhạc rồi sau đó mới tới chơi nhạc cụ.
- Bí quyết ở đây là luyện tập thật nhiều. Học bằng thẻ hoặc dùng sách hướng dẫn đọc nhạc sẽ giúp bạn có một nền tảng vững chắc.
- Hãy ghi nhớ những câu sau khi chơi piano: Ở tay phải: “Em Gọi Bạn Đi Fượt” đối với những nốt nhạc nằm trên dòng kẻ; Đối với những nốt nhạc nằm ở khe, bạn có thể nhớ là: “Fải Ăn Cùng Em”. Ở bàn tay trái: “Gọi Bạn Đi Fượt À?” đối với những nốt nhạc nằm trên dòng kẻ; “Ăn Cùng Em Gái.” đối với những nốt nhạc nằm ở khe.
- Các loại nốt nhạc thông dụng bao gồm: nốt đen, nốt trắng, móc đơn, móc đôi.
- Thanh trượt trên kèn trombone dùng để chơi các nốt thăng và giáng.
Cảnh báo[sửa]
- Học nhạc có thể phải học cả đời. Hãy học chậm mà chắc.
Nguồn và Trích dẫn[sửa]
- Music Notation by Gardner Read
- Harmony by Walter Piston
- Harper Dictionary of Music by Christine Ammer
- Jazz Harmony by Andy Jaffe
- Berklee College of Music