Các vũ trụ song song
Ngoài vũ trụ của chúng ta có thể tồn tại nhiều vũ trụ song song khác. Đây là một giả thuyết dựa trên cơ sở những quan trắc vũ trụ. Chúng ta đã gặp vấn đề các vũ trụ song song và đa vũ trụ trong triết học, trong Phật học và cả trong những câu chuyện viễn tưởng, một vấn đề có thể được bạn đọc nhiều lĩnh vực quan tâm. Sự tồn tại của những vũ trụ song song giúp ta giải thích những khía cạnh lạ lùng của vũ trụ chúng ta, từ tiền-Big Bang đến những nghịch lý đầy thách thức của cơ học lượng tử. Chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của Max Tegmark, bản thân tác giả cũng hoạt động trong hai “vũ trụ song song”: chuyên gia lớn về phần mềm máy tính (tác giả trò chơi Tetris 4 chiều) và giáo sư vật lý, thiên văn học tại đại học Pennsylvania.
Liệu có một alter ego (một cái tôi khác) tồn tại song song với bản thân ta? Các mô hình vũ trụ hiện đại chứng tỏ rằng mỗi chúng ta có thể có một “bản sao” sống trên một thiên hà cách xa ta khoảng O 1028 m. Khoảng cách đó quá xa song không vì thế mà làm cho cái bóng đó (doppelgonger) trở nên kém hiện thực. Điều khẳng định này có thể suy từ lý thuyết xác suất và từ giả định rằng vũ trụ là vô hạn và vật chất phân bố đều xét ở kích thước vĩ mô (những giả định đó lại là những điều mà người ta đang quan sát được). Trong một không gian vô hạn, mọi điều tưởng chừng như không thể đều trở thành có thể. Hiện nay chúng ta chỉ quan sát được một vùng gọi là thể tích Hubble có kích thước T 10 26 m. Ta có thể chẳng bao giờ thấy được cái tôi khác đó. Và cái tôi khác đó cũng có một thể tích Hubble riêng, một vũ trụ riêng. Mỗi vũ trụ là một phần nhỏ của “đa vũ trụ - multiverse”.
Các nhà khoa học nhận định có 4 mức vũ trụ song song. Vấn đề ở đây không phải là đa vũ trụ tồn tại hay không mà là có bao nhiêu mức của đa vũ trụ.
Mục lục
Mức I: Ngoài chân trời vũ trụ của chúng ta[sửa]
Những vũ trụ của các alter ego đã nói trước đây cấu thành mức I của đa vũ trụ (xem góc trái trên của hình 1). Thử chứng minh rằng các alter ego có thể tồn tại dựa trên giả định là vũ trụ vô hạn và vật chất phân bố đều ở kích thước vĩ mô.
Hãy
hình
dung
ví
dụ
một
vũ
trụ
2
chiều,
trong
đó
có
4
hạt
A,
B,
C,
D,
một
vũ
trụ
như
vậy
có
24
=
16
cách
xếp
đặt
(arrangement)
Am
Bn
Cl
Ds
(m
,
n,
l,
s
=
1,2)
cho
vật
chất.
Nếu
có
hơn
16
vũ
trụ
thì
có
các
cách
xếp
đặt
phải
lặp
lại
và
chúng
ta
có
những
vũ
trụ
song
song
khác
với
những
alter
ego.
Đối
với
vũ
trụ
của
chúng
ta
thì
tình
huống
cũng
tương
tự.
Trong
vũ
trụ
của
chúng
ta
có
chừng
10118
hạt
cơ
bản
vậy
có
2
mũ
(10118)
hay
viết
một
cách
khác
2exp
(10118)
cách
xếp
đặt
vật
chất.
Như
thế
vũ
trụ
sẽ
lặp
lại
ở
ngoài
khoảng
cách
cỡ
chừng
2exp
(10118)m
-
10exp(10118)m
và
ở
đó
các
alter
ego
sẽ
có
một
thể
tích
Hubble
khác
tương
tự
như
thể
tích
Hubble
của
chúng
ta.
Những
thực
thể
trong
các
vũ
trụ
song
song
mức
I
chịu
những
quy
luật
vật
lý
giống
nhau
song
những
điều
kiện
ban
đầu
có
thể
khác.
Mức II: Những bong bóng (bubble) khác sau lạm phát[sửa]
Những vũ trụ cấu thành đa vũ trụ mức II được tiên đoán nhờ lý thuyết lạm phát hỗn độn vĩnh cửu (chaotic eternal inflation). Cụm từ hỗn độn vĩnh cửu có nghĩa rằng không gian xét ở kích cỡ vĩ mô luôn giãn nở, song một số vùng lại dừng giãn nở và làm thành những bong bóng hay bọt (bubble) giống như những bọt khí hình thành trong các ổ bánh mì. Đa vũ trụ mức II đa dạng hơn so với mức I. Quá trình lạm phát hỗn độn có thể gây nên những phá vỡ đối xứng khác nhau trong các bọt đó: một số có thể là 4 chiều, một số có thể chứa 2 họ quark thay vì 3 như trong vũ trụ của chúng ta, một số có thể có những hằng số hấp dẫn lớn hơn so với vũ trụ của chúng ta.
Theo
một
ý
tưởng
do
Richard
C.
Tolman
đề
ra
năm
1930,
Paul
J.
Steinhardt
(Đại
học
Princeton)
và
Neil
Turok
(Đại
học
Cambridge)
cho
rằng
đa
vũ
trụ
mức
II
có
thể
là
một
màng
(brane)
song
song
với
màng
của
chúng
ta
(theo
lý
thuyết
siêu
dây,
vũ
trụ
của
chúng
ta
cư
trú
trong
một
màng
3
chiều).
Đa
vũ
trụ
mức
I
nằm
trong
một
bọt
(bubble),
ngoài
ra
còn
nhiều
bọt
khác,
tập
hợp
các
bọt
đó
làm
thành
đa
vũ
trụ
mức
II
(xem
góc
trái
dưới
của
hình
1).
Theo
một
ý
kiến
khác
của
Lee
Smolin
(Viện
Perimeter,
ontario)
đa
vũ
trụ
mức
II
có
thể
nẩy
mầm
từ
những
lỗ
đen
thay
vì
từ
vật
lý
các
màng.
Trước
Big
Bang,
vũ
trụ
chìm
đắm
trong
một
trạng
thái
kỳ
dị
với
những
dao
động
hỗn
độn,
điều
này
dẫn
đến
những
quá
trình
co
hấp
dẫn,
nguyên
nhân
hình
thành
những
lỗ
đen.
Sau
chân
trời
lỗ
đen,
các
graviton
(lượng
tử
của
trường
hấp
dẫn)
tương
tác
với
các
dilaton
(lượng
tử
của
trường
lực
giãn
nở)
làm
phát
sinh
những
vũ
trụ
mới
với
những
số
chiều
có
thể
khác
số
chiều
của
vũ
trụ
chúng
ta.
Trong
những
vũ
trụ
đó
người
ta
có
thể
tìm
thấy
những
dạng
lạ
(exotic)
của
vật
chất
và
biết
đâu
tồn
tại
cả
những
dạng
sống
khó
hình
dung
nổi.
Đối
với
đa
vũ
trụ
mức
II,
các
nhà
vật
lý
không
có
khả
năng
xác
định
các
hằng
số
vật
lý
từ
những
nguyên
lý
ban
đầu.
Mức III: Các thế giới lượng tử[sửa]
Đa vũ trụ mức I&II là những thế giới nằm cách xa nhau ngoài cả miền quan trắc của thiên văn, song đa vũ trụ mức III lại nằm quanh quẩn gần chúng ta. Sự tồn tại của đa vũ trụ này xuất phát từ cách diễn đoán nổi tiếng song cũng chứa đầy những yếu tố thách thức của cơ học lượng tử: tính xác suất của các quá trình lượng tử làm phát sinh nhiều phiên bản của vũ trụ, mỗi phiên bản là một sản phẩm khả dĩ của quá trình.
Như chúng ta biết, trong cơ học lượng tử, đối tượng quan trọng là hàm sóng mô tả trạng thái của hệ. Hàm sóng biến thiên theo thời gian theo một cung cách mà các nhà vật lý lý thuyết gọi bằng từ “unitarity” (bảo toàn thông tin), do đó hàm sóng thực hiện một phép quay trong một không gian trừu tượng có vô hạn chiều gọi là không gian Hilbert.
Hàm
sóng
dẫn
đến
những
những
tình
huống
khó
hiểu
về
mặt
trực
giác,
như
tình
huống
con
mèo
của
Schrodinger
vừa
ở
trạng
thái
sống
vừa
ở
trạng
thái
chết
theo
nguyên
lý
chồng
chất.
Đến
năm
1920
người
ta
đưa
ra
luận
thuyết:
hàm
sóng
sẽ
co
(collapse)
vềmột
trạng
thái
cổ
điển
khi
tiến
hành
một
phép
quan
sát.
Năm
1957,
Hugh
Everett
(Đại
học
Princeton)
đã
chứng
tỏ
rằng
định
đề
về
quá
trình
co
(collapse)
là
không
cần
thiết.
Cơ
học
lượng
tử
tự
thân
nó
không
chứa
một
mâu
thuẫn
nào.
Một
thực
tại
cổ
điển
sẽ
là
trạng
thái
chồng
chất
của
nhiều
thực
tại
cổ
điển
khác
và
việc
phân
tách
(splitting)
trạng
thái
chồng
chất
đó
sẽ
gắn
liền
với
những
xác
suất
(phù
hợp
với
xác
suất
trong
phép
collapse).
Sự
chồng
chất
các
thế
giới
cổ
điển
đó
cấu
thành
đa
vũ
trụ
mức
III
(xem
góc
phải
dưới
của
hình
1
&
hình
2).
Cơ
học
lượng
tử
tiên
đoán
một
số
lớn
các
vũ
trụ
song
song.
Hãy tưởng tượng một con súc sắc 6 mặt. Khi chúng ta ném nó xuống, nó sẽ trình kiến một mặt nào đó. Cơ học lượng tử khẳng định rằng con súc sắc sẽ trình kiến cùng một lúc 6 mặt. Một cách để giải quyết mâu thuẫn này là con súc sắc trình kiến những mặt khác nhau trong những vũ trụ khác nhau. Trong một vũ trụ nó trình kiến mặt 1, trong một vũ trụ khác nó trình kiến mặt 2, và... Nằm trong một vũ trụ, chúng ta chỉ nhận được một mặt của thực tại lượng tử đó.
Ngoài ra các vũ trụ song song mức III lại cho chúng ta một cách đoán nhận thời gian vốn là một khái niệm bí ẩn trong vật lý. Đối với một nhà sinh học thì đấy là quá trình lão hóa, đối với nhà tâm lý học thì đó là quá trình phát triển trong ý thức của mỗi đối tượng. Jean Giono nói về thời gian: đó là điều đã đi qua khi không có điều gì đã đi qua cả.
Mọi người thường xem thời gian như gắn liền với mọi biến thiên. Tại một thời điểm vật chất nằm trong trạng thái này, tại thời điểm sau trong một trạng thái khác. Nếu sử dụng khái niệm đa vũ trụ thì chúng ta có một cách đoán nhận khác. Nếu các vũ trụ song song chứa mọi cách xếp đặt (cấu hình) của vật chất thì thời gian chỉ là một phương thức trình bày các trạng thái đó thành một chuỗi.
Sự tồn tại vũ trụ song song mức III gắn liền với nguyên lý unitarity (nguyên lý bảo toàn thông tin). Trước đây người ta đã đặt câu hỏi: liệu khi lỗ đen bay hơi thì thông tin có còn tồn tại hay không? Những nghiên cứu gần đây đã dẫn đến nguyên lý toàn ảnh (holographic): lý thuyết lượng tử hấp dẫn ở vùng trong của không gian anti-de Sitter (AdS) là hoàn toàn tương đương với lý thuyết lượng tử (CFT) của các hạt nằm trên vùng mặt biên. Người ta còn gọi nguyên lý này là mối tương quan AdS/CFT
Mức IV: Những cấu trúc toán học khác[sửa]
Nếu chúng ta xét đến khả năng tồn tại những quy luật vật lý khác, chúng ta sẽ thu được những vũ trụ song song thuộc mức IV. Vì sao không có những vũ trụ trong đó chỉ có những định luật cổ điển ngự trị mà vắng mặt hoàn toàn các định luật lượng tử, trong đó thời gian tiến triển gián đoạn như trong các máy tính mà không là liên tục?
Những ý tưởng như thế không phải là những ý tưởng hoàn toàn điên rồ, mà phản ánh một mối tương quan giữa suy luận trừu tượng toán học với thực tại quan sát được. Những cấu trúc toán học, như những con số, những vectơ, những hình học đều mô tả thực tại một cách sát thực (verisimilitude). Năm 1959, nhà vật lý Eugene P.Wigner đã phát biểu: "Sự hữu ích lớn lao của toán học trong các khoa học tự nhiên là tạo ra những vùng biên với sự bí ẩn”.
Chúng ta có thể kể đến quan điểm của hai nhà triết học: Plato & Aristote. Theo Aristote thì thực tại vật lý là cơ bản còn ngôn ngữ toán học chỉ là một phương tiện mô tả gần đúng thực tại. Trái lại Plato thì cho rằng các cấu trúc toán học mới là thực tại cơ bản. Những nhà vật lý hiện đại lại có khuynh hướng thiên về hệ mẫu (paradigme) Plato, họ cho rằng sở dĩ toán học có thể mô tả thực tại đẹp như vậy chỉ vì thực tại vật lý có bản chất toán học! Như vậy cuối cùng mọi bài toán vật lý về thực chất là những bài toán toán học (xem góc phải trên của hình 1).
Một cấu trúc toán học là một thực thể trừu tượng tồn tại ngoài không thời gian.
Có thể tự hỏi vì sao chúng ta phải nghĩ đến nhiều vũ trụ song song như thế? Chúng ta đã gặp tình huống sau: đôi khi xét toàn diện một tổng thể lại đơn giản hơn xét phiến diện một yếu tố riêng lẻ. Mọi người đều biết rằng thuật toán để tạo ra một dãy số lại đơn giản hơn nhiều so với thuật toán tạo ra một con số riêng lẻ. Một lý thuyết chứa đa vũ trụ sẽ là đẹp đẽ hơn, phổ quát hơn, đơn giản hơn và chính xác hơn. Khi phủ nhận đa vũ trụ chúng ta phải phức tạp hóa lý thuyết, phải đưa vào nhiều giả định, nhiều định đề. Ví dụ nhờ các vũ trụ song song ở mức III mà cơ học lượng tử có thể dễ hiểu hơn, không cần đến định đề co (collapse) nói ở phần vũ trụ song song mức III.
Nói một cách khác: hoặc sử dụng giả thuyết nhiều vũ trụ hoặc phải sử dụng nhiều lời để đưa ra những giả định, những định đề (many worlds or many words - đa vũ trụ hoặc đa từ ngữ)!
Có lẽ chúng ta phải chấp nhận những điều kỳ dị như đa vũ trụ để nắm được hết cái đẹp và cái hợp lý của thực tại vật lý.
Tác giả[sửa]
- Max Tegmark
- Cao Chi biên dịch (Theo Tạp chí Tia Sáng)