Lord Byron

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

George Gordon Noel Byron, nam tước Byron đời thứ 6 (1788 – 1824) là nhà thơ lãng mạn nước Anh, thường được gọi là Lord Byron. Ông được coi là một trong những nhà thơ lớn của thế giới thế kỷ 19. Ông được biết đến với lối sống tai tiếng về tình ái và lỗi lạc về ngôn ngữ thơ.

Tiểu sử[sửa]

Đầu đời[sửa]

Byron sinh ở London, trong một gia đình quý tộc đã sa sút.

Năm 1790, người cha qua đời, nên bà Catherine bồng con về Aberdeenshire, Scotland. Năm 1798, George Byron được thừa kế tước hiệu từ người chú tuyệt vời của mình ở tuổi 10 và được chính thức công nhận là Lord Byron.

Năm 1801, Byron được gửi đến trường Harrow tại London, nơi ông học cho đến tháng 7 năm 1805. Là một học sinh bình thường, ông đã đại diện cho trường trong trận đấu bóng gậy đầu tiên giữa Eton với Harrow.

Byron đã yêu Mary Chaworth - anh em họ xa, người mà ông gặp trong khi ở trường và không được đáp lại này được thể hiện qua một số bài thơ, trong đó có Hills of Annesley Adieu. Trong hồi ký sau này của Lord Byron, "Mary Chaworth được miêu tả là đối tượng đầu tiên của cảm xúc tình yêu trưởng thành của mình."

Từ năm 1805-1808, Byron học Trinity College, mùa thu năm 17 tuổi, ông đã gặp và yêu John Edleston - thành viên dàn đồng ca của Trinity. Byron đã viết một số lời bài hát lãng mạn cho những ca khúc của Edleston, trong đó ông gọi người tình của mình với cái tên phụ nữ Thyrza.

Trong thời gian này, cuộc sống quý tộc thái quá và tiệc tùng, quyền anh, cưỡi ngựa và cờ bạc lấn sâu ông vào nợ nần.

Trong tháng 6 năm 1807, ông thiết lập một tình bạn lâu dài với John Cam Hobhouse - người mà ông trao đổi thư từ về văn học và được khởi xướng vào chính trị tự do, tham gia câu lạc bộ Whig Cambridge.[1]

Tính cách và ngoại hình[sửa]

Khi là một cậu bé, Byron được mô tả như một "hỗn hợp của vị ngọt tình cảm và hài hước.

Lord Byron bị tật chân từ khi sinh ra khiến ông tự ý thức cuộc đời mình, ông đã bị ảnh hưởng gây ra cả đời đau khổ tâm lý và thể chất, trầm trọng hơn do chữa bệnh đau đớn. Một số tác giả y tế hiện đại cho rằng đó là một hệ quả của bệnh bại liệt, nhưng bù lại ông sở hữu khuôn mặt đẹp tựa như người Hy lạp và sở thích thường hay lọn tóc vào ban đêm.

Chu du và sự nghiệp viết thơ[sửa]

Chính trị[sửa]

Sau khi nhận được sự chỉ trích gay gắt từ người đọc, tập thơ Những giờ giải trí (Hours of Idleness) và năm 1808 là trường ca Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland (English Bards and Scotch Reviewers) phê phán những nhà lãng mạn quá khích. Bài thơ đã tấn công cộng đồng văn học với sự dí dỏm và châm biếm, và ông đã nhận được sự công nhận văn học đầu tiên của mình.

Từ năm 1809 là thành viên nghị viện Anh.[2] Ở tuổi 21, ông mất chiếc ghế ở Nghị viện. Sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước khu vực Địa Trung Hải.[3]

Năm 1812 in 2 chương đầu của Chuyến hành hương của Childe Harold (Childe Harold's Pilgrimage) kể lại chuyến đi Nam Âu Cận Đông.

Mối quan hệ tai tiếng và tác phẩm[sửa]

Tập tin:Ada lovelace.jpg
Ada, con gái của Byron là một nhà khoa học nổi tiếng thế giới

Vào tháng Bảy năm 1811, Byron trở về London sau cái chết của mẹ mình. Nhận được sự khen ngợi cao của xã hội nước Anh đã kéo ông ra khỏi tình trạng ảm đạm của mình, cũng như một loạt các vấn đề tình yêu.

Cuộc sống riêng tư của Byron bắt đầu nổi lên từ 1812, khi ông có cuộc tình với Lady Caroline Lamb - tiểu thuyết gia, vợ của tử tước William Lamb. Mối quan hệ diễn ra khá ngắn ngủi, ông chủ động chia tay để theo một người lớn hơn mình 20 tuổi, bà Oxford, nhưng Caroline thì không bao giờ quên được. Bà theo đuổi ông ngay cả khi ông đã chán nản, mệt mỏi vì bà. Nhà thơ nhẫn tâm phải than phiền với mẹ chồng của Caroline rằng: "Tôi đang bị một bộ xương săn đuổi". Về sau, người phụ nữ quý tộc cay đắng thừa nhận rằng, Byron là một kẻ "rất điên rồ, rất tồi tệ, rất nguy hiểm để quen biết".

Khi còn nhỏ, Byron khá gắn bó với Augusta Leigh - chị cùng cha khác mẹ của ông. Mối quan hệ này về sau trở thành tình ái lúc byron trưởng thành và là vụ loạn luận nổi tiếng lúc bấy giờ. Từ năm 1811, Augusta sống ly thân với chồng nhưng đến tháng 4/1814, Augusta vẫn sinh hạ một bé gái tên là Elizabeth Medora Leigh. Một số lời đồn đại Byron là cha của Elizabeth. Sự hỗn loạn và tội lỗi mà ông đã trải qua như là kết quả của những mối tình được phản ánh trong một loạt các bài thơ: Bóng tối, Kẻ vô thần (The Giaour), Nàng dâu của Abydos (The Bride of Abydos), Cướp biển (The Corsair).

Byron trở về London làm lại cuộc đời. Ông lập gia đình với một cô gái ngây thơ, trong trắng - Anna Isabella Mibarke, nhỏ hơn ông bốn tuổi. Cuộc hôn nhân không hạnh phúc, ông đối xử tàn nhẫn với cô. Họ đã có một đứa con gái (Ada Lovelace). Ngày 21 tháng 4 năm 1816, họ chính thức ly hôn.

Trong một lá thư, Augusta dẫn lời ông nói: Những vết thương do tình yêu gây ra dù không làm cho người ta chết nhưng cũng không bao giờ chữa khỏi được". Cùng năm đó Lady Caroline xuất bản cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của cô là Glenarvon.

Tha hương[sửa]

Năm 1812, phát biểu trước nghị viện, Byron tố cáo tầng lớp thống trị ở Anh và đòi hủy bỏ luật tử hình những người công nhân phá máy.

Đối mặt với áp lực gia tăng là kết quả của cuộc hôn nhân thất bại của mình, vấn đề tai tiếng và khoản nợ khổng lồ, Byron rời nước Anh vào tháng Tư cùng năm 1816 và không bao giờ quay trở lại. Ông đã dành mùa hè tại hồ Geneva ở Thụy sĩ với bạn thân là vợ chồng Percy Bysshe Shelley và Claire Clairmont, người mà Byron đã có thêm một cô con gái.

Byron đi đến Ý, nơi ông đã sống trong hơn sáu năm. Năm 1819, trong khi lưu trú tại Venice, ông bắt đầu ngoại tình với Teresa Guiccioli, vợ của một nhà quý tộc Ý.[4] Đó là vào khoảng thời gian này mà Byron đã viết một số tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, bao gồm cả 'Don Juan' (1819-1824).

Trong những tác phẩm The Giaour (1813), The Bride of Abydos (1813), The Corsair (1814), Lara (1814), The Siege of Corinth (1816) Byron kêu gọi đấu tranh giành tự do. Những năm 1817-1820 Byron sống ở Venezia, cảm thông với nỗi khổ của người Ý trước ách cai trị của người Áo. Thời kỳ này ông viết một số trường ca và 2 chương tiếp theo của Childe Harold's Pilgrimage. Những năm 1818-1819 ông viết trường ca Don Juan gồm 16 chương và chương 17 viết dở.

Năm 1823 ông sang Hy Lạp để tham gia đấu tranh giải phóng Hy Lạp khỏi ách cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ nhưng công việc đang dở dang thì ông bị sốt và mất ngày 19 tháng 4 năm 1824 vào tuổi 36 tại Mesolongi, ở Hy Lạp ngày nay. Thi thể của ông đã được đưa trở lại nước Anh và chôn ở Nottinghamshire.

Chủ nghĩa Byron[sửa]

Lòng say mê mãnh liệt, tính trữ tình sâu sắc, sự bạo dạn về ý tưởng và vẻ sống động của những hình tượng khiến Byron trở thành một trong những nhà thơ lớn và nổi tiếng nhất ở châu Âu thế kỷ 19. Tác phẩm của Byron mở ra những khả năng mới của chủ nghĩa lãng mạn như một phương pháp nghệ thuật. Byron đưa vào thơ ca những nhân vật mới, làm giàu hình thức và thể loại thơ ca. Ông có sự ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca thế giới thế kỷ 19, sinh ra một trường phái thơ ca ở nhiều quốc gia khác nhau với tên gọi chủ nghĩa Byron.

Tác phẩm[sửa]

  • Những giờ nhàn rỗi (Hours of Idleness,1806)
  • Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland (English Bards and Scotch Reviewers, 1809)
  • Chuyến hành hương của Childe Harold (Childe Harold's Pilgrimage, 1812 – 1818)
  • Kẻ vô thần (The Giaour, 1813)
  • Nàng dâu của Abydos (The Bride of Abydos, 1813)
  • Cướp biển (The Corsair, 1814)
  • Lara (Lara, 1814)
  • Những giai điệu Do Thái (Hebrew Melodies (1815)
  • Cuộc bao vây Corinth (The Siege of Corinth, 1816)
  • Parisina (Parisina, 1816)
  • Người tù Chillon (The Prisoner Of Chillon, 1816)
  • Giấc mơ (The Dream, 1816)
  • Thần Promethus (Prometheus, 1816)
  • Bóng tối (Darkness, 1816)
  • Manfred (Manfred, 1817)
  • Lời than thở của Tasso (The Lament of Tasso, 1817)
  • Beppo (Beppo, 1818)
  • Mazeppa (Mazeppa, 1819)
  • Lời tiên tri của Dante (The Prophecy of Dante, 1819)
  • Marino Faliero (Marino Faliero, 1820)
  • Sardanapalus (Sardanapalus, 1821)
  • Hai cha con Foscari (The Two Foscari, 1821)
  • Ca-in (Cain, 1821)
  • Bóng ma ngày phán xét (The Vision of Judgement, 1821)
  • Trời và đất (Heaven and Earth, 1821)
  • Werner (Werner, 1822)
  • Quái thai biến dạng (The Deformed Transformed, 1822)
  • Kỷ đồ đồng (The Age of Bronze, 1823)
  • Hòn đảo (The Island, 1823)
  • Đông Gioăng (Don Juan (1819 – 1824)

Một vài bài thơ[sửa]

Fare Thee Well
 
"At last! they had been friends in youth:
But whispering tongues can poison truth;
And constancy lives in realms above;
And life is thorny; and youth is vain;
And to be wroth with one we love,
Doth work like madness in the brain;
But never either found another
To free the hollow heart from paining -
They stood aloof, the scars remaining.
Like cliffs which had been rent asunder;
A dreary sea now flows between,
But neither heat, nor frost, nor thunder,
Shall wholly do away, I ween,
The marks of that which once hath been."
Coleridge, Christabel
 
Fare thee well! and if for ever,
Still for ever, fare thee well:
Even though unforgiving, never
'Gainst thee shall my heart rebel.
 
Would that breast were bared before thee
Where thy head so oft hath lain,
While that placid sleep came o'er thee
Which thou ne'er canst know again:
 
Would that breast, by thee glanced over,
Every inmost thought could show!
Then thou wouldst at last discover
Twas not well to spurn it so.
 
Though the world for this commend thee -
Though it smile upon the blow,
Even its praise must offend thee,
Founded on another's woe:
 
Though my many faults defaced me,
Could no other arm be found,
Than the one which once embraced me,
To inflict a cureless wound?
 
Yet, oh yet, thyself deceive not;
Love may sink by slow decay,
But by sudden wrench, believe not
Hearts can thus be torn away:
 
Still thine own its life retaineth,
Still must mine, though bleeding, beat;
And the undying thought which paineth
Is - that we no more may meet.
 
These are words of deeper sorrow
Than the wail above the dead;
Both shall live, but every morrow
Wake us from a widowed bed.
 
And when thou wouldst solace gather,
When our child's first accents flow,
Wilt thou teach her to say "Father!"
Though his care she must forego?
 
When her little hands shall press thee,
When her lip to thine is pressed,
Think of him whose prayer shall bless thee,
Think of him thy love had blessed!
 
Should her lineaments resemble
Those thou never more may'st see,
Then thy heart will softly tremble
With a pulse yet true to me.
 
All my faults perchance thou knowest,
All my madness none can know;
All my hopes, where'er thou goest,
Wither, yet with thee they go.
 
Every feeling hath been shaken;
Pride, which not a world could bow,
Bows to thee - by thee forsaken,
Even my soul forsakes me now:
 
But 'tis done - all words are idle -
Words from me are vainer still;
But the thoughts we cannot bridle
Force their way without the will.
 
Fare thee well! thus disunited,
Torn from every nearer tie.
Seared in heart, and lone, and blighted,
More than this I scarce can die.
 
So We'll Go No More A Roving
 
So we'll go no more a- roving
So late into the night,
Though the heart be still as loving,
And the moon be still as bright.
 
For the sword outwears its sheath,
And the soul wears out the breast,
And the heart must pause to breathe,
And Love itself have rest.
 
Though the night was made for loving,
And the day returns too soon,
Yet we'll go no more a- roving
By the light of the moon.
 
When we two are parted
 
When we two parted
In silence and tears,
Half broken-hearted,
To sever for years,
 
Pale grew thy cheek and cold,
Colder thy kiss;
Truly that hour foretold
Sorrow to this.
 
The dew of the morning
Sank chill on my brow
It felt like the warning
Of what I feel now.
 
Thy vows are all broken,
And light is thy fame:
I hear thy name spoken,
And share in its shame.
 
They name thee before me,
A knell to mine ear;
A shudder comes o'er me
Why wert thou so dear?
 
They know not I knew thee,
Who knew thee too well:
Long, long shall I rue thee
Too deeply to tell.
 
In secret we met
In silence I grieve
That thy heart could forget,
Thy spirit deceive.
 
If I should meet thee
After long years,
How should I greet thee?
With silence and tears.
 
Maid of Athens, ere we part
1
Maid of Athens, ere we part,
Give, oh give me back my heart!
Or, since that has left my breast,
Keep it now, and take the rest!
Hear my vow before I go,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
2
By those tresses unconfined,
Wooed by each Ægean wind;
By those lids whose jetty fringe
Kiss thy soft cheeks' blooming tinge
By those wild eyes like the roe,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
3
By that lip I long to taste;
By that zone-encircled waist;
By all the token-flowers that tell
What words can never speak so well;
By love's alternate joy and woe,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
4
Maid of Athens! I am gone:
Think of me, sweet! when alone.
Though I fly to Istambol,
Athens holds my heart and soul:
Can I cease to love thee? No!
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
Vĩnh biệt em
 
Than ôi! họ đã từng là bạn của nhau
Nhưng ác nhân đầu độc lòng chung thủy
Dù sự thật vẫn sống ở trên cao
Nhưng tuổi thanh xuân phí hoài, vô nghĩa
Và cuồng điên ngự trị ở trong đầu
Và cuộc đời từ đây chia hai ngả.
Không bao giờ họ còn gặp lại nhau
Để con tim lại mừng vui, hớn hở
Biệt ly này có ai muốn gì đâu
Như vách đá bị chia làm hai nửa.
Biển buồn bã giữa con sóng bạc đầu
Không sấm chớp, oi nồng hay băng giá
Tình đã chết ở trong lòng, tuy thế
Hai người đã từng một thuở của nhau.
Coleridge. Christabel.
 
Vĩnh biệt em! và nếu là mãi mãi
Thì đến muôn đời vĩnh biệt em
Lòng hận thù anh không còn giữ lại
Và em nhé, hãy quên.
 
Có lẽ nào trên ngực của anh
Nơi mái đầu của em từng cúi xuống
Nơi đã từng say sưa trong giấc mộng
Em còn nhớ chăng giấc mộng của mình?
 
Và với anh, có lẽ nào em nỡ
Khi đã nhìn xuyên suốt trái tim anh
Rồi sau đấy em dễ dàng chối bỏ
Trái tim anh em nỡ coi thường.
 
Có thể là thiên hạ sẽ khen em
Nhưng là điều tai họa, em có biết
Rằng khi nhận về lời khen cho mình
Em mang bất hạnh đến cho người khác.
 
Ừ thì anh lỗi lầm, anh vẫn biết
Anh vẫn mong chuộc lại lỗi lầm
Nhưng tại sao bàn tay, em nỡ giết
Bàn tay từng âu yếm cùng anh?
 
Và dù sao, em đừng tự dối mình
Ngọn lửa tình đâu đã tàn phai hẳn
Dù bây giờ đã ly biệt con tim
Tình đau đớn trong tim này vẫn sống.
 
Tình của em trong tim anh vẫn giữ
Đớn đau này rỉ máu trái tim anh
Một ý nghĩ vẫn làm anh đau khổ
Rằng sẽ không còn gặp nữa chúng mình.
 
Em có nghe tiếng nức nở của ai
Như tiếng khóc lạc loài trên xác chết
Ta vẫn sống, nhưng mỗi sáng hai người
Đều goá bụa trên giường khi tỉnh giấc.
 
Và khi em âu yếm cùng con gái
Dạy con mình cất tiếng gọi "Cha ơi!"
Thì với con của mình, em có nói:
Cha của con vẫn sống ở trên đời?
 
Khi bàn tay đứa con quàng âu yếm
Khi hôn môi con em có biết rằng
Anh vẫn mong và vẫn luôn cầu nguyện
Vẫn nghĩ về em như thuở yêu anh.
 
Nếu em thấy con gái mình rất giống
Với kẻ mà xưa em nỡ phụ tình
Nếu bỗng nhiên con tim em rung động
Nhịp đập chân thành em hãy hướng về anh.
 
Lỗi lầm anh, có thể là em biết
Vẻ điên cuồng em chẳng biết được đâu
Niềm hy vọng của anh còn tha thiết
Như bên tai còn vọng mãi u sầu.
 
Và tâm hồn rất kiêu hãnh của anh
Trước tình em cúi xuống
Hồn anh đuổi theo em
Từ giã anh đi về nơi xa vắng.
 
Hết thật rồi, tất cả lời trống rỗng
Càng phí hoài hơn thế những lời anh
Nhưng ý nghĩ không thể nào ngăn cản
Ý nghĩ khát khao bay đến với tình.
 
Vĩnh biệt em! giờ tình yêu đã hết
Mất em rồi, tình yêu đã xa xôi
Không bao giờ tim anh còn được chết
Bởi từ đây con tim đã chết rồi.
 
Chẳng còn những đêm xưa
 
Thôi đêm này chẳng cùng em sánh bước
Như những đêm xưa từng bước chung đôi
Dù tình yêu vẫn dồn lên trong ngực
Và ánh trăng vẫn sáng ở trên trời.
 
Như lưỡi dao đã mòn vì bao vỏ
Tâm hồn đau vì đã lắm bồi hồi
Giờ con tim đang rất cần hơi thở
Và tình yêu đang muốn được nghỉ ngơi.
 
Dù đêm nay vẫn dịu hiền như trước
Đêm dễ thương, âu yếm của hai người
Nhưng anh và em chẳng còn sánh bước
Như những đêm xưa dưới ánh trăng soi.
 
Khi hai ta chia tay
 
Khi hai ta chia tay
Trong nước mắt, im lặng
Nửa con tim đau đớn
Ly biệt tháng năm này.
 
Gò má em tái nhợt
Bờ môi em lạnh lùng
Như đã từng báo trước
Giờ ly biệt buồn thương.
 
Giọt sương buổi sớm mai
Tinh sương và giá lạnh
Giọt sương rơi lên trán
Điềm báo phút giây này.
 
Lời nguyền không còn nữa
Bản án của tin đồn
Anh nghe và sẽ cùng
Sẻ chia điều xấu hổ.
 
Giữa thiên hạ tên em
Làm người ta lo lắng
Chẳng lẽ anh và em
Những người cùng huyết thống?
 
Gọi em không phiền muộn
Người ta vẫn dễ dàng
Không biết rằng anh vẫn
Biết em, như biết mình.
 
Từ lâu trong bí ẩn
Tình yêu của chúng mình
Anh bây giờ giữ kín
Bí ẩn nỗi buồn riêng.
 
Nếu như còn gặp mặt
Sau ly biệt nhiều năm
Trong lặng im, nước mắt
Sẽ gặp lại cùng em.
 
Cô gái Athens
1
Cô gái Athens, trước lúc chia tay
Em trả lại con tim cho tôi nhé
Hay là con tim của tôi từ đó
Đã cùng em, ở lại đến muôn đời
Lời thề hẹn của tôi, em hãy nhớ:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!*
2
Ngọn gió biển Aegea ve vuốt
Lên mái tóc, lên đôi má em tôi
Ngọn gió hôn lên đôi mắt rạng ngời
Ơi đôi mắt của em ngời vẻ đẹp
Xin hãy nhớ lời hẹn thề da diết:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
3
Tôi đã từng hôn lên đôi môi đó
Bằng cả tình yêu tuổi trẻ của tôi
Và những giọng của loài hoa thầm thĩ
Còn nói nhiều hơn tất cả những lời
Tôi thề hẹn với niềm vui, nỗi khổ:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
4
Cô gái Athens, khi tôi đi rồi
Em hãy nhớ về tôi, khi vắng vẻ
Giờ tôi đến Istambol xa lạ
Nhưng Athens sống mãi giữa lòng này
Và con tim không bao giờ từ giã
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi![5]
Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng

Chú thích[sửa]

  1. Recollections of the life of Lord Byron, from the year 1808 to the end of... – Alexander Robert Charles Dallas, Books.google.com. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 5 March 2012.
  2. Bone, Drummond (2004). The Cambridge Companion to Byron, 110–111, Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-78676-8. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 20 November 2008. “In fact (as their critics pointed out) both Byron and Hobhouse were to some extent dependent upon information gleaned by the French resident François Pouqueville, who had in 1805 published an influential travelogue entitled Voyage en Moree, a Constantinople, en Albanie ... 1798–1801
  3. Elze, Karl Friedrich (1872). Lord Byron, a biography, London: John Murray. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 11 July 2008.
  4. Câu này trong nguyên bản tiếng Anh viết bằng tiếng Hy Lạp, và đây là những lời chú thích của Byron: “Lời thổ lộ tình yêu bằng tiếng Hy Lạp. Nếu tôi dịch nó thì sẽ làm mất lòng những người đàn ông cho rằng đó là sự thiếu lòng tin vào khả năng tự dịch của họ, mà nếu không dịch thì sẽ làm phật ý những chị em phụ nữ. Tôi sợ sự hiểu lầm của phụ nữ, và tôi quyết định dịch, xin các học giả hãy độ lượng tha thứ. Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ (Zoë mou sas agapo) nghĩa là: “Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!” (My life, I love you!), câu này nghe rất dễ thương bằng tất cả các thứ tiếng.

Liên kết ngoài[sửa]

Liên kết đến đây