
Sách:Điện từ sinh học/Hệ thống điện tâm đồ 12 đạo trình
15.1.Các đạo trình Chi
Các điều kiện:
Nguồn: Nguồn lưỡng cực hai chiều tại một điểm cố định.
Bộ dẫn: Vô hạn, bộ dẫn khối thuần nhất hoặc thuần nhất dạng cầu với lưỡng cực đặt tại tâm.
Augustus
Désiré
Waller
đã
đo
điện
tim
đồ
trên
cơ
thể
người
vào
năm
1887
bằng
cách
sử
dụng
mao
dẫn
kế
của
Lippman.
Ông
đã
chọn
5
vị
trí
điện
cực
như
sau:
4
điện
cực
ở
đầu
các
chi
và
1
điện
cực
tại
miệng
(Waller,1889).
Bằng
cách
này,
có
thể
thu
được
trở
kháng
tiếp
xúc
đủ
nhỏ
và
do
đó
tín
hiệu
điện
tâm
đồ
thu
được
là
lớn
nhất.
Hơn
thế
nữa,
vị
trí
điện
cực
đựơc
xác
định
một
cách
rõ
ràng
và
các
điện
cực
được
gắn
tại
các
chi.
Năm
điểm
đo
tạo
ra
tất
cả
10
đạo
trình
khác
nhau
(xem
hình
15.1A).
Từ
10
đạo
trình
này
ông
đã
chọn
ra
được
5
đạo
trình
và
gọi
là
đạo
trình
tim.
Hai
trong
số
đó
được
xác
định
như
là
đạo
trình
Einthoven
I
và
III
được
mô
tả
sau
đây.
Willem
Einthoven
cũng
đã
sử
dụng
mao
dẫn
kế
trong
những
lần
đo
điện
tâm
đồ
đầu
tiên.
Những
đóng
góp
chủ
yếu
trong
kĩ
thuật
đo
điện
tâm
đồ
của
ông
là
sự
phát
triển
và
ứng
dụng
đồng
hồ
đo
dòng
điện
galvanic
.
Tính
chính
xác
của
nó
đã
vượt
xa
so
với
việc
sử
dụng
mao
dẫn
kế
trước
đó.
Đồng
hồ
đo
dòng
điện
Galvanic
được
phát
minh
bởi
chính
Clément
Ader
(Ader,1897).
Năm
1908,
Willem
Einthoven
đã
công
bố
bản
mô
tả
đầu
tiên
rất
quan
trọng
về
hệ
thống
đo
ECG
lâm
sàng
(Einthoven,1908).
Những
lí
do
thực
tế
kể
trên
đúng
hơn
về
một
phương
diện
sinh
học
được
xác
định
trong
hệ
thống
đạo
trình
Einthoven.
Đó
là
một
ứng
dụng
trong
10
đạo
trình
của
Waller.
Hệ
thống
đạo
trình
Einthoven
được
miêu
tả
trong
hình
15.1B.


Các đạo trình chi của Einthoven (đạo trình chuẩn) được định nghĩa như sau:
Đạo trình I: VI = ΦL - ΦR
Đạo
trình
II:
VII
=
ΦF
-
ΦR(15-1)
Đạo trình III: VIII = ΦF - ΦL
Trong đó:
VI là điện áp của đạo trình I
VII là điện áp của đạo trình II
VIII là điện áp của đạo trình III.
ΦL là điện thế tại tay trái.
ΦR là điện thế tại tay phải.
ΦF là điện thế tại chân trái
( Tay trái, tay phải, và chân trái cũng được biểu diễn với các kí hiệu tương ứng là LA,RA và LL ).
Theo định luật Kirchhoff thì các điện áp của các đạo trình tuân theo mối quan hệ sau:
Do đó chỉ có 2 trong số 3 đạo trình là độc lập với nhau.
Các
vetor
đạo
trình
kết
hợp
với
hệ
thống
đạo
trình
Einthoven
được
tìm
ra
dựa
trên
giả
thuyết
rằng
tim
được
đặt
tại
một
khối
dẫn
thuần
nhất
vô
hạn.(
hoặc
ở
tâm
của
một
khối
cầu
thuần
nhất
được
biểu
diễn
như
là
thân
trên
cơ
thể).
Có
thể
thấy
rằng
nếu
vị
trí
của
tay
phải
,
tay
trái
và
chân
trái
là
các
đỉnh
của
một
tam
giác
đều
thì
tim
được
đặt
trùng
với
trọng
tâm
(giữa)
của
nó
và
khi
đó
các
vector
đạo
trình
cũng
tạo
thành
một
tam
giác
đều.
Một
mô
hình
đơn
giản
tạo
nên
từ
giả
thiết
rằng
các
nguồn
của
tim
được
đặc
trưng
bởi
một
lưỡng
cực
phân
bố
tại
tâm
của
một
hình
cầu
đặc
trưng
cho
phần
thân
trên
cơ
thể,
do
đó
nó
cũng
đặt
tại
trọng
tâm
của
tam
giác
đều.
Với
những
giả
thiết
này,
các
điện
áp
đo
được
từ
3
đạo
trình
chi
là
tỉ
lệ
các
hình
chiếu
của
các
vector
điện
tim
trên
cạnh
của
tam
giác
đều
vector
đạo
trình,
được
mô
tả
như
trong
hình
15.1B.
Những
khái
niệm
này
là
bản
tóm
tắt
của
những
thảo
luận
trong
phần
11.4.3,
ở
đó
cho
rằng
các
cạnh
của
tam
giác
đều
thực
chất
là
được
tạo
nên
từ
các
vector
đạo
trình
tương
ứng.
Điện
áp
của
các
đạo
trình
chi
tính
được
từ
phương
trình
11.19,
giống
như
dưới
đây.
(Einthoven,
Fahr,
and
de
Waart,
1913,
1950).
(
Hãy
chú
ý
rằng
những
phương
trình
khi
viết
sử
dụng
hệ
tọa
độ
như
trong
phần
phụ
lục).

Nếu thay phương trình 11.19 vào phương trình 15.2 ,ta có thể chứng minh lại được định luật Kirchhoff. Có nghĩa là phương trình 15.2 được thỏa mãn, từ đó chúng ta thu được:

15.2. Tín hiệu điện tim
15.2.1.Tín hiệu điện tim tạo ra trước quá trình hoạt động
Trước
khi
nói
về
nguồn
gốc
của
tín
hiệu
điện
tâm
đồ
một
cách
chi
tiết
.
Chúng
ta
sẽ
xem
xét
một
ví
dụ
đơn
giản
giải
thích
loại
tín
hiệu
nào
được
truyền
trước
quá
trình
hoạt
động
ở
trong
một
khối
dẫn.
Hình
15.2
biểu
diễn
một
bộ
dẫn
khối
và
cặp
điện
cực
đặt
tại
bề
mặt
đối
diện
của
nó.
Hình
này
được
chia
thành
4
trường
hợp.
Trong
đó,
cả
quá
trình
khử
cực
và
tái
cực
được
biểu
diễn
trước
khi
truyền
tới
cả
điện
cực
dương
và
âm.
Trong
các
trường
hợp
khác
nhau
thì
các
tín
hiệu
thu
được
có
tính
phân
cực
như
sau:
Trường
hợp
A:
Trước
khi
sự
khử
cực
lan
truyền
tới
điện
cực
dương,
nó
tạo
ra
một
tín
hiệu
mang
cực
tính
dương.(xem
chi
tiết
trong
hình
ở
dưới).
Trường
hợp
B:
Khi
quá
trình
hoạt
động
lan
truyền
qua
khỏi
điện
cực
dương
thì
tín
hiệu
mang
cực
tính
âm
tương
ứng.
Trường
hợp
C:
Dễ
dàng
hiểu
rằng,
trước
khi
sự
tái
cực
lan
truyền
tới
điện
cực
dương,
tín
hiệu
mang
cực
tính
âm.
Mặc
dù
vẫn
biết
rằng
quá
trình
tái
cực
không
thực
sự
được
lan
truyền.
Ở
biên
giới
giữa
vùng
hoạt
động
và
vùng
tái
cực
có
thể
được
xác
định
như
một
hàm
của
thời
gian.
Quá
trình
lan
truyền
trong
hướng
này
sẽ
được
mô
tả
sau
đây.
Trường
hợp
D:
Khi
hướng
lan
truyền
trước
quá
trình
tái
cực
đi
ra
khỏi
điện
cực
dương
thì
lại
tạo
ra
tín
hiệu
mang
cực
tính
dương.
Cực
tính
dương
của
tín
hiệu
trong
trường
hợp
A
có
thể
được
xác
định
theo
cách
sau :
Đầu
tiên
chúng
ta
chú
ý
rằng
điện
áp
truyền
màng
tế
bào
của
sóng
truyền
đi
mang
cực
tính
âm
do
vùng
dẫn
tại
đó
đang
trong
trạng
thái
nghỉ.
(Điều
kiện
này
được
mô
tả
như
trong
hình
15.2
thể
hiện
bằng
dấu
-).
Sau
khi
có
mặt
sóng
tới
thì
điện
áp
truyền
màng
tế
bào
sẽ
nằm
trong
trạng
thái
ổn
định,
do
đó
nó
mang
cực
tính
dương
(được
biểu
thị
bằng
dấu
+
trong
hình
15.2).
Nếu
ứng
dụng
phương
trình
(8.25)
để
tính
toán
với
nguồn
của
lớp
kép
được
kết
hợp
với
sự
điều
chỉnh
này,
như
đã
nói
đến
trong
mục
8.2.4
,
và
nếu
điện
áp
truyền
màng
tế
bào
ở
dưới
mức
nghỉ
hay
điều
kiện
cân
bằng
được
chấp
nhận
là
không
đổi
thì
một
nguồn
của
lớp
kép
chỉ
xuất
hiện
tại
mặt
sóng.
Vậy
vấn
đề
quan
trọng
ở
đây
chính
là
sự
định
hướng
của
lớp
kép,
được
xác
định
bởi
đạo
hàm
khoảng
không
gian
điện
tích
âm
Vm
,
là
toàn
bộ
về
phía
bên
trái.(
tương
ứng
với
hướng
của
sự
lan
truyền
sóng).
Vì
các
lưỡng
cực
hướng
về
điện
cực
dương
nên
tín
hiệu
mang
cực
tính
dương.

Phân
cực
âm
của
tín
hiệu
trong
trường
hợp
C
có
thể
được
xác
định
theo
cách
sau:
Trong
trường
hợp
hướng
của
quá
trình
tái
cực
cho
phép
chúng
ta
xác
định
chính
xác
vùng
nào
có
điện
áp
truyền
màng
tế
bào
Vm
là
âm
tính(
đó
là
vùng
mà
quá
trình
tái
cực
đã
kết
thúc
và
màng
tế
bào
đã
trở
về
trạng
thái
nghỉ)
và
dương
tính
(
vùng
mà
quá
trình
tái
cực
chưa
diễn
ra
và
màng
tế
bào
vẫn
ở
trạng
thái
ổn
định).
Các
vùng
này
được
xác
định
trong
hình
15.2
được
dánh
dấu
bằng
các
dấu
(-)
và
(+)
tương
ứng.
Trong
ví
dụ
được
lí
tưởng
hóa
cao
này,
chúng
ta
thể
hiện
quá
trình
tái
cực
xuất
hiện
ngay
tại
mặt
phân
cách
–
và
+
(mặt
sóng
tái
cực).
Nhưng
nguồn
được
liên
kết
với
phân
bố
không
gian
của
Vm
vẫn
tìm
thấy
được
từ
phương
trình
8.25.
Phương
trình
này
được
ứng
dụng
để
biểu
diễn
lớp
kép,
cho
bởi
đạo
hàm
vùng
không
gian
điện
tích
âm,
bằng
không
tại
mọi
nơi
trừ
ở
vị
trí
mặt
sóng
tái
cực.
Ở
đó,
vector
điện
thế
hướng
sang
phải
(trong
trường
hợp
này,
nó
ngược
chiều
với
hướng
của
sóng
tái
cực).
Do
các
nguồn
lưỡng
cực
có
hướng
từ
điện
cực
dương
nên
sẽ
đo
được
một
tín
hiệu
cực
tính
âm
.
Trong
trường
hợp
mà
quá
trình
hoạt
động
không
truyền
trực
tiếp
tới
các
điện
cực
thì
tín
hiệu
tỉ
lệ
với
các
thành
phần
của
tốc
độ
truyền
theo
hướng
của
điện
cực,
thể
hiện
trên
hình
15.2E.
Kết
quả
này
sinh
ra
từ
sự
kết
hợp
của
lớp
kép
với
trước
quá
trình
hoạt
động
và
áp
dụng
phương
trình
13.4.
Ở
đây
chúng
ta
thừa
nhận
hướng
của
vector
đạo
trình
được
làm
xấp
xỉ
bởi
đường
nối
giữa
các
đạo
trình.
Chú
ý
rằng
chúng
ta
đang
bỏ
qua
những
ảnh
hưởng
có
thể
xảy
ra
từ
sự
thay
đổi
độ
rộng
của
sóng
hoạt
động
với
sự
thay
đổi
hướng
lan
truyền.
Một
chú
ý
đặc
biệt
cho
trường
hợp
A
và
D,
chúng
được
đánh
dấu
*
vì
chúng
thể
hiện
các
mối
quan
hệ
cơ
bản.
15.2.2 Các dạng của tín hiệu điện tim
Những
tế
bào
cấu
tạo
nên
cơ
tâm
thất
được
ghép
đôi
với
nhau
ở
chỗ
giao
của
các
kẽ
hở.Với
trái
tim
khỏe
mạnh
bình
thường,
có
một
điện
trở
rất
nhỏ.
Như
vậy,
sự
hoạt
động
trong
một
tế
bào
luôn
sẵn
sàng
lan
truyền
sang
những
tế
bào
bên
cạnh.
Điều
đó
nói
lên
rằng
trái
tim
cư
xử
như
một
hợp
bào.
Một
sóng
lan
truyền
được
khởi
đầu
tiếp
tục
lan
truyền
đều
tới
những
vùng
trong
trạng
thái
nghỉ.
Chúng
ta
đã
khảo
sát
được
trạng
thái
điện
vật
lí
của
một
sợi
đồng
nhất.
Bây
giờ
chúng
ta
có
thể
áp
dụng
những
kết
quả
này
cho
tim
nếu
ta
coi
như
tim
được
cấu
tạo
từ
những
sợi
đồng
nhất.
Những
sợi
tương
đương
này
là
đại
diện
chính
xác
vì
chúng
phù
hợp
với
hợp
bào
tự
nhiên
của
tim.
Thực
tế,
vì
những
hợp
bào
phản
ánh
mối
liên
kết
trong
mọi
hướng.
Chúng
ta
có
thể
chọn
sự
định
hướng
của
sợi
sao
cho
thuận
lợi.(
giá
trị
dẫn
xuất
được
cho
với
những
sợi
tương
ứng
với
chúng,
cái
này
hiện
tại
đã
được
đo
).
Chúng
ta
biết
nhiều
về
sự
hoạt
động
liên
tục
trong
tim
khi
nghiên
cứu
về
giống
chó.
Những
mẫu
nghiên
cứu
sớm
nhất
trong
chủ
đề
này
đã
được
thực
hiện
bởi
Scher
and
Young
(1957).
Gần
đây,
có
nhiều
nghiên
cứu
thực
hiện
trên
tim
người
và
một
bài
báo
mô
tả
về
những
kết
quả
thu
được
đã
được
công
bố
bởi
Durrer
et
al
(1970)
.
Những
nghiên
cứu
này
đưa
ra
rằng
mặt
sóng
hoạt
động
là
tương
đối
giống
nhau,
từ
màng
trong
tim
tới
lá
tạng
ngoài
tâm
mạc
và
từ
đỉnh
tới
đáy.
Một
cách
để
mô
tả
hoạt
động
của
tim
là
ta
vẽ
liên
tục
những
mặt
sóng
khử
cực
tức
thời.
Do
những
bề
mặt
này
nối
mọi
điểm
trong
pha
thời
gian
giống
nhau.
Bề
mặt
của
mặt
sóng
cũng
được
xem
như
là
đẳng
thời
gian
(cùng
nhau
về
mặt
thời
gian).
Một
sự
định
lượng
của
nguồn
lưỡng
cực
có
thể
được
tính
toán
bằng
cách
suy
rộng
phương
trình
(8-25)
cho
mỗi
sợi
tương
đương
.
Quá
trình
này
gồm
được
thực
hiện
bằng
cách
lấy
gradient
khoảng
không
gian
Vm.
Nếu
chúng
ta
cho
rằng
trên
một
mặt
của
tế
bào
là
ở
trạng
thái
nghỉ
hoàn
toàn
,
trong
khi
ở
mặt
còn
lại
là
ở
trạng
thái
cân
bằng
hoàn
toàn,
thì
nguồn
sẽ
bằng
không
ở
mọi
nơi
trừ
ở
mặt
sóng.
Bởi
vậy,
mặt
sóng
hay
đường
đẳng
thời
gian
không
chỉ
mô
tả
bề
mặt
hoạt
động
mà
còn
cho
biết
vị
trí
của
những
nguồn
của
lớp
kép.
Từ
những
điều
ở
trên
chúng
ta
có
thể
nghiên
cứu
sự
tạo
ra
ECG
trên
thực
tế
bằng
cách
đưa
vào
quá
trình
tính
toán
một
chuỗi
các
hoạt
dộng
thực
tế
của
lớp
kép.
Như
sự
mô
tả
trong
hình
15.3
.Sau
khi
hoạt
động
điện
của
tim
được
bắt
đầu
từ
nút
Xoang,
nó
được
truyền
dọc
theo
thành
tâm
nhĩ,
kết
quả
tạo
ra
là
các
vector
điện
thế
hoạt
động
của
tâm
nhĩ
,
được
minh
họa
bằng
một
mũi
tên
màu
đậm.
Hình
chiếu
của
vector
tổng
hợp
này
lên
3
đạo
trình
chi
của
Einthoven
mang
cực
tính
dương
nên
tín
hiệu
thu
được
mang
cực
tính
dương.
Sau
khi
quá
trình
khử
lan
truyền
qua
thành
tâm
nhĩ,
nó
đi
tới
nút
AV.
Quá
trình
truyền
qua
tiếp
giáp
AV
rất
chậm
và
nó
liên
quan
tới
số
lượng
các
mô
nên
nó
tạo
ra
một
khoảng
thời
gian
trễ
của
quá
trình
hoạt
động
(đây
là
khoảng
thời
gian
tạm
dừng
mong
muốn
có
được
vì
nó
cho
phép
thực
hiện
quá
trình
hút
đầy
máu
của
tâm
thất).
Khi
quá
trình
hoạt
động
được
truyền
tới
tâm
thất,
nó
tiếp
tục
lan
dọc
theo
các
sợi
Purkinje
tới
thành
trong
của
các
tâm
thất.
Quá
trình
khử
cực
của
tâm
thất
bắt
đầu
từ
vách
ngăn
bên
trong
tâm
thất
trái
và
do
đó
nó
làm
cho
lưỡng
cực
từ
các
điểm
hoạt
động
thuộc
vách
ngăn
chuyển
sang
phía
bên
phải.
Trên
hình
15.3
thể
hiện
rằng
đây
là
nguyên
nhân
tạo
ra
các
tín
hiệu
mang
cực
tính
âm
trong
các
đạo
trình
I
và
II.
Trong
pha
tiếp
theo,
các
sóng
khử
cực
xuất
hiện
ở
cả
hai
bên
của
vách
ngăn
tâm
thất
và
khử
các
lực
điện
của
chúng,
vì
vậy
các
đỉnh
hoạt
động
cũng
sớm
xuất
hiện
và
do
đó
tạo
nên
một
vector
đỉnh.



Ngay
sau
khi
mặt
khử
cực
được
truyền
đi
qua
vách
của
tâm
thất
phải
thì
đầu
tiên
nó
tới
bề
mặt
thượng
tâm
vị
của
vách
thông
trên
tâm
thất
phải
và
chúng
ta
gọi
đây
là
sự
đánh
thủng.
Do
thành
của
tâm
thất
trái
dày
hơn
tâm
thất
phải,
hoạt
động
của
thành
dẫn
thông
của
tâm
thất
trái
sẽ
tiếp
tục
diễn
ra
thậm
chí
sau
khi
quá
trình
khử
cực
diễn
ra
tại
một
vùng
rộng
của
tâm
thất
phải.
Vì
không
có
các
lực
điện
tích
bù
nào
ở
bên
phải
nên
vector
tổng
đạt
tới
giá
trị
cực
đại
trong
pha
này
và
nó
hướng
về
phía
bên
trái.
Mặt
sóng
khử
cực
tiếp
tục
lan
truyền
dọc
theo
thành
tâm
thất
trái
xuống
phía
dưới.
Do
diện
tích
bề
mặt
của
nó
giảm
liên
tục
nên
biên
độ
của
vector
tổng
cũng
giảm
cho
tới
khi
tất
cả
các
cơ
tâm
thất
đều
bị
khử
cực.
Sau
cùng
của
quá
trình
khử
cực
là
các
vùng
cơ
bản
của
cả
tâm
thất
phải
và
tâm
thất
trái.Và
do
không
có
hoạt
động
nào
nên
trong
giai
đoạn
này
cũng
không
có
tín
hiệu
gì.
Quá
trình
tái
cực
của
tâm
thất
bắt
đầu
từ
bên
ngoài
các
tâm
thất
và
mặt
sóng
tái
cực
lan
truyền
hướng
vào
bên
trong.
Điều
này
có
vẻ
như
là
nghịch
lý,
nhưng
thậm
chí
cả
thượng
tâm
vị
bị
khử
cực
sau
cùng,
hoạt
động
điện
của
nó
diễn
ra
tương
đối
ngắn
và
nó
bắt
đầu
quá
trình
tái
cực
đầu
tiên.
Mặc
dù
quá
trình
khôi
phục
của
một
tế
bào
này
không
lan
truyền
được
tới
các
tế
bào
bên
cạnh
nhưng
người
ta
vẫn
nhận
ra
rằng
việc
khôi
phục
thường
di
chuyển
từ
thượng
tâm
vị
tới
màng
trong
tim.
Sự
lan
rộng
của
mặt
sóng
tái
cực
ở
bên
trong
tạo
ra
tín
hiệu
cùng
dấu
với
mặt
sóng
khử
cực
bên
ngoài,
như
được
vẽ
ở
hình
15.2
(cần
nói
lại
là
hướng
của
mặt
sóng
tái
cực
và
chiều
của
các
nguồn
lưỡng
cực
là
ngược
nhau).
Và
do
sự
khuếch
tán
của
quá
trình
tái
cực
nên
biên
độ
của
tín
hiệu
nhỏ
hơn
nhiều
so
với
biên
độ
của
dạng
sóng
khử
cực
và
thời
gian
tồn
tại
của
nó
lâu
hơn.
Điện
tâm
đồ
bình
thường
được
chỉ
ra
trên
hình
15.4.
hình
15.4
cũng
bao
gồm
cả
các
định
nghĩa
đối
với
các
phần
khác
nhau
và
khoảng
thời
gian
khác
nhau
của
một
tín
hiệu
điện
tim.
Những
biến
đổi
dạng
sóng
trong
tín
hiệu
điện
tim
được
biểu
thị
bằng
các
chữ
cái
và
được
bắt
đầu
bằng
kí
tự
P,
nó
thể
hiện
cho
quá
trình
khử
cực
tâm
nhĩ,
QRS
là
quá
trình
khử
cực
tâm
thất
và
quá
trình
tái
cực
ứng
với
sóng
T.
Quá
trình
tái
cực
tâm
nhĩ
diễn
ra
trong
phức
bộ
và
tạo
ra
một
tín
hiệu
biên
độ
thấp
không
thể
quan
sát
được
trên
ECG
bình
thường.

15.3 Điểm trung tâm Wilson
Frank
Norman
Wilson
(1890-1952)
đã
phát
hiện
ra
cách
xác
định
điện
thế
đơn
cực
của
điện
tâm
đồ.
Theo
lí
tưởng
thì
điện
áp
này
được
đo
bằng
mối
quan
hệ
với
một
điểm
tham
chiếu
từ
xa
(vô
tận).
Nhưng
như
vậy
thì
chúng
ta
thu
các
điện
áp
này
thế
nào
trong
một
bộ
dẫn
khối
có
kích
thước
bằng
cơ
thể
người
với
các
điện
cực
được
đặt
tại
các
chi.
Trong
một
vài
bài
báo
về
vấn
đề
này,
ông
và
các
đồng
sự
(Wilson,
Macleod,
and
Barker,
1931;
Wilson
et
al.,
1934)
đã
khẳng
định
rằng
việc
sử
dụng
điểm
trung
tâm
được
coi
như
một
điểm
tham
chiếu.
Điều
này
được
thực
hiện
bằng
cách
nối
một
điện
trở
5kΩ
từ
mỗi
đầu
của
các
đạo
trình
chi
tới
một
điểm
chung
được
gọi
là
điểm
trung
tâm.
Thể
hiện
trên
hình
15.5.
Wilson
khẳng
định
rằng
các
điện
thế
đơn
cực
có
thể
đo
được
bởi
mối
quan
hệ
với
điểm
này,
nó
xấp
xỉ
với
một
điện
thế
ở
vô
cùng.
Thực
tế,
điểm
tập
trung
Wilson
không
phải
là
độc
lập
nhưng
nó
có
giá
trị
bằng
giá
trị
trung
bình
của
điện
thế
các
chi.
Thông
thường
dòng
tổng
đi
vào
điểm
trung
tâm
Wilson
cần
phải
bằng
0
để
thỏa
mãn
yêu
cầu
về
bảo
toàn
dòng
điện.
Do
đó
chúng
ta
có:

Từ đó chúng ta có:

Bởi
vì
điện
thế
điểm
chung
có
giá
trị
bằng
giá
trị
trung
bình
của
điện
thế
các
chi
nên
nó
có
thể
được
coi
là
độc
lập
với
một
điểm
bất
kì
nào
đó
và
nó
thỏa
mãn
điều
kiện
tham
chiếu.
Trong
việc
thăm
khám
và
hệ
thống
đo
lường
thực
tế
thì
nó
rất
quan
trọng.
Kết
quả
thu
được
là
hoàn
toàn
phù
hợp
với
những
ứng
dụng
trong
thăm
khám
bệnh
nhân.
Wilson
đã
chủ
định
sử
dụng
điện
trở
5kΩ,
và
nó
vẫn
được
sử
dụng
rộng
rãi.
Mặc
dù
hiện
nay
những
bộ
khuếch
đại
ECG
với
đầu
vào
trở
kháng
cao
cho
phép
những
giá
trị
điện
trở
cao
hơn
rất
nhiều.
Trở
kháng
cao
làm
tăng
hệ
số
CMRR
và
giảm
độ
lớn
của
các
thành
phần
lạ
được
đưa
vào
từ
các
điện
trở
bề
mặt
hay
điện
cực.
Dễ
dàng
thấy
được
trong
hình,
điểm
trung
tâm
Wilson
được
tìm
thấy
ở
tâm
tam
giác
Einthoven,
như
trong
hình
15-6.


(B) Vị trí của điểm trung tâm Wilson trong không gian ảnh (CT’). Nó nằm ở tâm tam giác Einthoven.
15.4 Các đạo trình gia tốc GOLDBERGER
Ba
đạo
trình
các
chi
thêm
vào,
VR
,VL
và
VF
thu
được
bằng
cách
đo
điện
thế
giữa
điện
cực
các
chi
và
điểm
chung
Wilson
.
Ví
dụ
điện
thế
chân
được
cho
bởi:

Năm
1942,
Goldberger
đã
quan
sát
thấy
rằng
những
tín
hiệu
này
có
thể
được
gia
tốc
bằng
cách
làm
tròn
giá
trị
điện
trở
của
điểm
trung
tâm
Wilson.
Nó
được
nối
tới
một
điện
cực
đo
(Goldberger,
1942a,b).
Bằng
cách
này,
ba
đạo
trình
ở
trên
có
thể
được
thay
thế
bởi
một
bộ
các
đạo
trình
mới
được
gọi
là
các
đạo
trình
gia
tốc
của
sự
gia
tốc
tín
hiệu.(xem
hình
15.7).
Ví
dụ,
công
thức
tính
cho
đạo
trình
gia
tốc
aVF
là:

So
sánh
công
thức
15.7
với
công
thức
15.6
thì
ta
thấy
tín
hiệu
gia
tốc
tăng
lên
khoảng
60%
so
với
tín
hiệu
thu
được
bằng
cách
sử
dụng
điểm
nối
chung
Wilson.
Đây
là
một
điểm
rất
quan
trọng
trong
ba
đạo
trình
gia
tốc,
aVR,aVL
và
aVF
là
hoàn
toàn
thừa
so
với
các
đạo
trình
tương
ứng
I,II
và
III.(
Những
điều
này
cũng
cho
cả
ba
đạo
trình
chi
đơn
cực
VL,VF
và
VR).

(B) Vị trí của vector đạo trình gia tốc Goldberger trong không gian ảnh.
15.5 Các đạo trình trước tim
Các điều kiện đầu:
Nguồn : Lưỡng cực phân bố xác định.
Bộ dẫn: Bộ dẫn khối vô hạn thuần nhất hoặc dạng hình cầu thuần nhất có lưỡng cực đặt tại tâm.
Đối
với
việc
đo
điện
thế
gần
tim
thì
Wilson
đã
chỉ
ra
các
đạo
trình
trước
tim
(
các
đạo
trình
ngực)
năm
1944
(Wilson
et
al.,
1944).
Các
đạo
trình
này,
từ
V1
đến
V6¬
được
phân
bố
chủ
yếu
trên
ngực
trái
như
được
mô
tả
trong
hình
15.8.
Các
điểm
V1
và
V2
được
xác
định
tại
sương
sườn
thứ
tư,
V4
tại
xương
sườn
thứ
5
ở
vùng
giữa
xương
đòn.
V3
nằm
giữa
V2
và
V4,
V5
nằm
cùng
hàng
ngang
như
V4
nhưng
trên
đường
lá
lách
trước,
V6
nằm
cùng
hàng
ngnag
với
V4
nhưng
tại
đường
lá
lách
giữa.
Phân
bố
các
vị
trí
điện
cực
được
mô
tả
như
trên
hình
15.8.

15.6. Sự biến đổi của hệ thống 12 đạo trình.
Hệ
thống
12
đạo
trình
được
mô
tả
ở
đây
được
sử
dụng
chủ
yếu
trong
các
quá
trình
chẩn
đoán.
Có
một
vài
điểm
thay
đổi
với
hệ
thống
12
đạo
trình
cho
các
ứng
dụng
khác
nhau.
Khi
thực
hiện
đo
điện
tim
đồ
thì
các
tín
hiệu
thường
bị
méo
dạng
do
các
hoạt
động
cơ,
hoạt
động
thở
và
các
ảnh
hưởng
do
điện
cực
trong
quá
trình
hô
hấp
và
sự
di
chuyển
của
các
điện
cực.
Sự
méo
dạng
này
cần
phải
được
tối
thiểu
hóa
bằng
cách
đặt
các
điện
cực
tại
vai
và
hông
thay
cho
các
điện
cực
tại
tay
và
chân.
Việc
này
được
đề
xuất
bởi
R.E.
Mason
và
I.Likar
(1966).
Những
thay
đổi
Mason-Likar
là
những
thay
đổi
quan
trọng
trong
hệ
thống
12
đạo
trình
được
sử
dụng
thực
tế
trong
điện
tâm
đồ.
Vị
trí
chính
xác
đối
với
điện
cực
tay
phải
trong
sự
thay
đổi
của
Mason-Likar
là
một
điểm
tại
phía
dưới
xương
đòn
cách
2cm
dưới
bờ
xương
đòn.
Điện
cực
tay
trái
được
định
vị
giống
như
bên
trái.
Điện
cực
chân
trái
được
đặt
tại
cạnh
sống
của
xương
chậu
bên
phải.
Điện
cực
chân
phải
được
đặt
tại
hố
của
xương
chậu
bên
phải.
Hệ
thống
các
đạo
trình
trước
tim
được
đặt
giống
như
các
vị
trí
chuẩn
của
hệ
thống
12
đạo
trình.
Trong
quá
trình
theo
dõi
điện
tâm
đồ,
như
trong
quá
trình
ghi
của
Holter,
các
điện
cực
cũng
được
đặt
tại
bề
mặt
cả
ngực
thay
cho
đặt
tại
các
chi.
15.7.
Nội
dung
thông
tin
của
hệ
thống
12
đạo
trình.
Hệ
thống
điện
tâm
đồ
chẩn
đoán
thường
được
sử
dụng
là
hệ
thống
12
đạo
trình
bao
gồm
các
đạo
trình
sau:
Các
đạo
trình
đơn
cực
chi
I,
II,
III.
Các
đạo
trình
gia
tốc
aVR,
aVL,
aVF.
Sáu
đạo
trình
trước
tim
V1,
V2,
V3,
V4,
V5,
V6..
Trong
số
12
đạo
trình
trên,
thì
sáu
đạo
trình
đầu
tiên
thu
được
từ
cùng
các
điểm
đo.
Do
dó,
bất
kì
2
trong
số
6
điện
cực
sẽ
có
các
thông
tin
tương
tự
nhau.
Trên
90%
hoạt
động
điện
của
tim
có
thể
được
giải
thích
cùng
với
mô
hình
nguồn.
(Geselowitz,
1964).
Để
tính
toán
lưỡng
cực
này,
đủ
để
đo
3
thành
phần
độc
lập
của
nó.
Theo
nguyên
tắc
thì
hai
trong
số
ba
đạo
trình
có
thể
phản
ánh
các
thành
phần
của
mặt
đằng
trước,
trong
khi
một
đạo
trình
thượng
vị
có
thể
được
chọn
cho
các
thành
phần
cả
trước
và
sau.
Việc
tổng
hợp
có
thể
mô
tả
một
cách
đầy
đủ
các
vector
điện
tim.
Mở
rộng
ra
thì
nguồn
tim
có
thể
được
mô
tả
như
một
lưỡng
cực,
hệ
thống
12
đạo
trình
điện
tim
đồ
có
thể
được
coi
là
có
3
đạo
trình
độc
lập
và
9
đạo
trình
dư
thừa.
Tuy
nhiên,
trên
thực
tế
các
đạo
trình
vùng
thượng
vị
cũng
phát
hiện
ra
các
thành
phần
không
lưỡng
cực
mà
nó
có
tác
dụng
khá
quan
trọng
trong
chẩn
đoán
vì
chúng
được
phân
bố
tại
gần
vùng
mặt
trước
của
tim.
Do
đó
hệ
thống
12
đạo
trình
điện
tâm
đồ
thực
sự
có
8
đạo
trình
độc
lập
và
4
đạo
trình
dư
thừa.
Các
vector
đạo
trình
đối
với
mỗi
đạo
trình
đều
dựa
trên
khối
dẫn
được
lí
tưởng
hóa
(có
hình
cầu)
như
được
chỉ
ra
trên
hình
15.9
.
Giả
sử
các
hình
này
được
dùng
để
cung
cấp
cho
điện
tim
đồ
chẩn
đoán.

Lí
do
chính
của
quá
trình
ghi
nhận
tất
cả
12
đạo
trình
là
nó
nâng
cao
khả
năng
nhận
biết
mẫu.
Việc
tổng
hợp
các
đạo
trình
này
mang
đến
cho
các
bác
sĩ
cơ
hội
so
sánh
các
hình
chiếu
của
các
vector
tổng
trên
cùng
một
mặt
phẳng
trực
giao
và
ở
các
góc
khác
nhau.
Điều
này
được
thực
hiện
xa
hơn
khi
cực
tính
của
đạo
trình
aVR
có
thể
bị
thay
đổi,
đạo
trình
–aVR
có
trong
rất
nhiều
các
bộ
ghi
nhận
điện
tâm
đồ.
Tóm
lại,
đối
với
việc
xác
định
gần
đúng
hoạt
động
điện
của
tim
thông
qua
lưỡng
cực
phân
bố
cố
định
đơn
lẻ
thì
9
đạo
trình
là
trở
thành
dư
thừa
trong
hệ
thống
12
đạo
trình.
Nếu
chúng
ta
quan
tâm
đến
các
thông
số
phân
bố
của
các
nguồn
thuộc
tim
và
ảnh
hưởng
của
bề
mặt
ngực
và
tính
không
thuần
nhất
ở
bên
trong
thì
có
thể
coi
chỉ
có
4
(hoặc
6)
đạo
trình
các
chi
là
dư
thừa.
Tham khảo
Ader C (1897): Sur un nouvel appareil enregistreur pour cables sousmarins. Compt. rend. Acad. Sci. (Paris) 124: 1440-2.
Durrer D, van Dam RT, Freud GE, Janse MJ, Meijler FL, Arzbaecher RC (1970): Total excitation of the isolated human heart. Circulation 41:(6) 899-912.
Einthoven W (1908): Weiteres über das Elektrokardiogram. Pflüger Arch. ges. Physiol. 122: 517-48.
Einthoven W, Fahr G, de Waart A (1913): Über die Richtung und die Manifeste Grösse der Potentialschwankungen im mennschlichen Herzen und über den Einfluss der Herzlage auf die form des Elektrokardiogramms. Pflüger Arch. ges. Physiol. 150: 275-315.
Einthoven W, Fahr G, de Waart A (1950): On the direction and manifest size of the variations of potential in the human heart and on the influence of the position of the heart on the form of the electrocardiogram. Am. Heart J. 40:(2) 163-211. (Reprint 1913, translated by HE Hoff, P Sekelj). Geselowitz DB (1964): Dipole theory in electrocardiography. Am. J. Cardiol. 14:(9) 301-6.
Goldberger E (1942a): The aVL, aVR, and aVF leads; A simplification of standard lead electrocardiography. Am. Heart J. 24: 378-96.
Goldberger E (1942b): A simple indifferent electrocardiographic electrode of zero potential and a technique of obtaining augmented, unipolar extremity leads. Am. Heart J. 23: 483-92.
Mason R, Likar L (1966): A new system of multiple leads exercise electrocardiography. Am. Heart J. 71:(2) 196-205.
Netter FH (1971): Heart, Vol. 5, 293 pp. The Ciba Collection of Medical Illustrations, Ciba Pharmaceutical Company, Summit, N.J.
Scher AM, Young AC (1957): Ventricular depolarization and the genesis of the QRS. Ann. N.Y. Acad. Sci. 65: 768-78.
Waller AD (1887): A demonstration on man of electromotive changes accompanying the heart's beat. J. Physiol. (Lond.) 8: 229-34.
Waller AD (1889): On the electromotive changes connected with the beat of the mammalian heart, and on the human heart in particular. Phil. Trans. R. Soc. (Lond.) 180: 169-94.
Wilson FN, Johnston FD, Macleod AG, Barker PS (1934): Electrocardiograms that represent the potential variations of a single electrode. Am. Heart J. 9: 447-71.
Wilson FN, Johnston FD, Rosenbaum FF, Erlanger H, Kossmann CE, Hecht H, Cotrim N, Menezes de Olivieira R, Scarsi R, Barker PS (1944): The precordial electrocardiogram. Am. Heart J. 27: 19-85.
Wilson FN, Macleod AG, Barker PS (1931): Potential variations produced by the heart beat at the apices of Einthoven's triangle. Am. Heart J. 7: 207-11.
Sách tham khảo.
Macfarlane PW, Lawrie TDV (eds.) (1989): Comprehensive Electrocardiology: Theory and Practice in Health and Disease, 1st ed., Vol. 1, 2, and 3, 1785 pp. Pergamon Press, New York.
Nelson CV, Geselowitz DB (eds.) (1976): The Theoretical Basis of Electrocardiology, 544 pp. Oxford University Press, Oxford.
Pilkington TC, Plonsey R (1982): Engineering Contributions to Biophysical Electrocardiography, 248 pp. IEEE Press, John Wiley, New York.
Trang trước | Hệ thống điện tâm đồ 12 đạo trình | Trang tiếp |