Tổng thuật thói hư tật xấu người Việt/5
Xét tật người Việt hiện đại
Về việc xét tật mình để cầu tiến bộ cho dân tộc thì giới trí thức Việt Nam ta cũng đã có làm, coi như song song và cùng thời với Trung Quốc, chủ yếu từ đầu thế kỷ XX. Như ở một phần trên, chúng tôi đã tóm tắt lại những ý kiến nhận xét của các bậc tiền bối liên quan thói hư tật xấu của người Việt từ công trình sưu tập của nhà văn Vương Trí Nhàn, và cũng từ công trình có thể gọi đầu tiên và độc đáo này trong thời hiện đại, mặc dù chưa xuất bản chính thức, 30 chúng ta thấy giới trí thức Việt Nam hiện nay đã bắt đầu có không ít người chú ý đặt lại vấn đề đổi mới đất nước nhằm thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu theo hướng tiếp cận cội nguồn văn hóa, lịch sử vốn là nguyên nhân gây nên những thói hư tật xấu như là căn tính của người Việt để tìm cách sửa chữa từ căn bản, thay vì cứ tiếp tục công kích vào những hiện tượng tiêu cực xã hội lẻ tẻ cứ ngày một phát sinh, gia tăng, kéo dài, và hầu như vô phương cứu chữa.
Trước Vương Trí Nhàn, có thông tin cho biết hai cố giáo sư Trần Quốc Vượng và Cao Xuân Hạo đã từng bày tỏ ý định sẽ viết sách về thói xấu người Việt, nhưng rất tiếc chưa bắt tay vào việc thì họ đều đã qua đời.
Trong một bài trả lời phỏng vấn báo Tiền phong cho chủ đề liên quan cuốn sách đương làm về thói hư tật xấu người Việt, nhà văn-nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng “Thông thường thì gọi là thói hư tật xấu của người Việt Nam, nhưng thực ra nó là trình độ sống, trình độ làm người của người Việt Nam… Điều quan trọng bây giờ là tự nhận thức mình xem anh là người thế nào, anh là ai. Tất cả tương lai của dân tộc nằm trong hành động này… Một trong những thói xấu của người Việt Nam là rất sợ nói đến thói xấu… Cả xã hội đóng băng trong sự tự khen thưởng… Nhưng thói xấu lớn nhất vẫn là sợ người khác nói xấu mình. Làm ăn với nước ngoài mà cứ lấy tinh vặt (ranh ma, khôn vặt) làm kế sinh lãi. Tôi rất không đồng ý với cuốn Thần đồng đất Việt, vì trong đó toàn ca ngợi cái tinh vặt, láu cá của người Việt khi làm ăn với ngoại quốc. Cái đó không đáng tự hào”.
Thật ra, công việc phê bình những thói xấu/ khuyết tật của người Việt, các phương tiện truyền thông như báo, đài trong nước vẫn thường làm, đặc biệt khi có xảy ra những chuyện xấu như bẻ hoa trong hội hoa xuân, giẫm đạp chen lấn nhau trong các kỳ lễ hội, hôi của…, nhưng việc phê bình còn lẻ tẻ, thiếu tính hệ thống. Từ ngày 24/9/2006, báo Tiền phong (cả trên báo giấy và báo điện tử) đã sớm có sáng kiến mở chuyên mục “Người Việt-Phẩm chất và thói hư tật xấu” như một diễn đàn để thu thập ý kiến rộng rãi từ phía bạn đọc (chủ yếu ở khu vực miền Bắc), “ngõ hầu cảnh tỉnh chung, trước hết thoát khỏi ‘thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của mình’”, và một phần nội dung quan trọng của diễn đàn này đã được tuyển chọn biên tập lại thành sách (xem Nhiều tác giả, Người Việt-Phẩm chất và thói hư tật xấu, Nxb Hồng Đức, 2013). Gần đây, nhân câu chuyện cô tiếp viên hàng không bị phát hiện xách hàng ăn cắp bên Nhật, người Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước đều cảm thấy như đạp phải gai vì xấu hổ lây, từ đó lại dấy lên một cao trào tự kiểm điểm thói xấu của người Việt, thể hiện sôi nổi qua mấy tờ báo lớn trong nước (như Tuổi trẻ...), cũng như trên một số trang mạng xã hội.
Bằng cách tổng kết lại từ các diễn đàn khoảng gần chục năm nay liên quan đến vấn đề đang xét, chúng ta sẽ có được một cái nhìn tổng quan về những thói xấu/ khuyết tật tồn tại qua nhiều thế hệ (thậm chí thế kỷ) ở đất nước ta song vẫn chưa khắc phục được.
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi tình cờ tìm thấy bài viết “Chỉ tên những tật xấu của người Việt thời nay” của TS Phạm Gia Minh đăng trên Tuanvietnam.net ngày 25/8/2008. Trong bài, tác giả đề nghị hãy cùng nhau lên 31 một danh mục, tạm gọi là “Danh mục các thói hư, tật xấu của người Việt thời nay” nhằm “vạch mặt, chỉ tên” càng chính xác càng tốt những biểu hiện tinh vi và đa dạng của nó.
Theo tác giả, thời trước cũng có “người Việt xấu xí”, “nhưng có lẽ trong kỷ nguyên của hội nhập quốc tế hôm nay, vì lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, chúng ta cần có thái độ tự phê phán cao hơn, khi phải hàng ngày hàng giờ tự soi mình vào tấm gương toàn cầu hóa, để phát hiện ra và tích cực sửa những nét lạc lõng, dị biệt với mọi giá trị nhân văn của thế giới văn minh”.
Sau khi đưa ra hai thói xấu phổ biến điển hình hiện nay ở Việt Nam là đua xe và tham nhũng, chỉ ra cách khắc phục cụ thể cho từng trường hợp, với niềm xác tín vào khả năng “đẩy lui được con bệnh”, tác giả đã thử phác thảo danh mục các thói hư tật xấu của người Việt thời nay (xếp theo bảng chữ cái tiếng Việt), như sau:
- A: An phận thủ thường; Ăn bẩn; Ăn người; Ăn cắp vặt; Ăn hơn, làm kém; Ăn tục nói phét; Ảo tưởng; Ăn xổi ở thì; Ẩu v.v…
- B: Bàng quan; Bảo thủ; Bằng cấp giả; Bán trời không văn tự; Bài ngoại; Bắt cóc bỏ đĩa; Bóc ngắn, cắn dài; Bè phái; “Buôn dưa lê”; Bới bèo ra bọ v.v…
- C: Cãi nhau to vì chuyện nhỏ; Chen ngang khi phải xếp hàng; Chọc gậy bánh xe; Chụp giật; Chửi bậy, cục súc; Cờ bạc; Coi thường pháp luật; Cù nhầy; Cửa quyền; Cười không đúng chỗ, đúng lúc v.v…
- D: Du di; Dị ứng tri thức; Dzô dzô (ăn nhậu thái quá) v.v…
- Đ: Đâm bị thóc, chọc bị gạo; Để bụng; Đỏ đen; Đố kỵ; Đùn đẩy; Đua xe v.v…
- E: Ép buộc; Ép uổng v.v…
- G: Gắp lửa bỏ tay người; Gia trưởng; Giả dối; Giàu ghen, khó ghét; Giậu đổ bìm leo v.v…
- H: Hách dịch; Hiếu chiến; Hòa cả làng; Hô khẩu hiệu suông; Hứa hão; Hút thuốc lá v.v…
- I: Ích kỷ hại người v.v…
- K: Khoe khoang; Khôn lỏi; Không đúng giờ; Không chính kiến; “Khuỳnh”; Kỳ vĩ v.v…
- L: Làm láo, báo cáo hay; Làm liều; Làm theo phong trào; Lập lờ nước đôi; Lệ làng; Lý nhẹ hơn tình v.v…
- M: Mạnh ai nấy chạy; Mất đoàn kết khi sung sướng, đầy đủ; Mê tín v.v…
- N: Ném bùn sang ao; Nịnh trên nạt dưới; Nhai to; Nhậu nhẹt triền miên; Nhổ bậy; Nhếch nhác; Nghĩ ngắn hạn (tư duy nhiệm kỳ); Ngoáy mũi nơi đông người; Nói dai, nói dài, nói dại; Nói một đằng, làm một nẻo; Nói to nơi công cộng; Nói phách (nói khoác lác); Nể nang; Nửa vời v.v…
- O: Oai hão; Ôm đồm; Ôm rơm rặm bụng; Ông giơ chân giò, bà thò nậm rượu (thông đồng làm việc khuất tất) v.v…
- P: Phép vua thua lệ làng; “Phong bì” (hối lộ); Phô trương; Phung phí v.v…
- Q: Qua cầu rút ván; Qua loa đại khái; Quan liêu; Quan trọng hóa vấn đề; Quy hoạch treo v.v… R: Ra oai; Ranh vặt; Rượu chè v.v…
- S: Sai hẹn; Sĩ diện hão; Sính ngoại; Sợ trách nhiệm; Sợ người khác giỏi hơn mình v.v…
- T: Tâm lý vùng (địa phương hẹp hòi); Tiểu nông, tiểu trí; Tiểu xảo; Tiểu khí (tiểu nhân, hạn hẹp); Tham nhũng; Thấy kẻ sang bắt quàng làm họ; Thụ động; Tư duy nhiệm kỳ; Tự ti dân tộc nhược tiểu v.v…
- U: Ưa xiểm nịnh; Ức hiếp kể yếu; Ừ hữ cho qua; Ương ngạnh v.v…
- V: Vặt vãnh; Vẽ vời; Vênh váo; Vị kỷ; Vị nể; Viển vông; Viết, vẽ bậy nơi công cộng; Vòi vĩnh; Vung tay quá trán v.v…
- X: Xa dân; Xa rời thực tế; Xả rác nơi công cộng v.v…
- Y: Ỷ lại; Ỷ quyền thế; Ý thức tập thể, cộng đồng kém v.v…
Xét danh mục trên đây, thấy có một số điểm (tật xấu) được nêu ra trùng lặp, như “Nghĩ ngắn hạn” với “ Tư duy nhiệm kỳ”… Một vài điểm khác có lẽ cũng chưa nên liệt hẳn vào tật xấu, như “Hút thuốc lá”, vì đây kể như thuộc cái chung “nhân loại” mà dân tộc nào cũng có… Bảng danh mục trên đây cũng chưa tách bạch, mà trộn lẫn, giữa những thói xấu thuộc sinh hoạt cá nhân (như Nhổ bậy, Ngoáy mũi nơi đông người…) với sinh hoạt cộng đồng (Chen ngang khi phải xếp hàng, Đua xe, Viết vẽ bậy nơi công cộng, Xả rác nơi công cộng…); giữa những khuyết tật/ nhược điểm về đầu óc-tư duy-tư tưởng (như Ăn tục nói phét, Ảo tưởng, Bảo thủ, Thụ động, Ương ngạnh, Vênh váo, Viển vông, Ỷ lại…) với nhân sinh quan/ thái độ sống (như An phận thủ thường, Vị kỷ…); giữa những quan hệ cá nhân (như Ưa xiểm nịnh, Ức hiếp kẻ yếu…) với hành vi có tính chất công quyền do cơ chế quản lý bất hợp lý gây ra (như Cửa quyền, Hô khẩu hiệu suông, Làm láo báo cáo hay, Làm theo phong trào, Phong bì/ Hối lộ, Quan liêu, Quy hoạch treo, Tham nhũng, Tư duy nhiệm kỳ, Xa dân, Xa rời thực tế…).
Trong bài viết “Tính xấu của người Việt Nam” (đăng ngày 10/02/2012 trên trang mạng chungtoimuontudo), ông Phan Nhật Nam mạnh dạn đưa ra nhận định: “Dân tộc Việt Nam, ngoài những điểm ưu việt ghê gớm mà các dân tộc khác trên thế giới không có, còn có những khuyết điểm, hay nói huỵch toẹt ra là những thói xấu, mà các dân tộc kia không thể nào sánh nổi cho dù họ có cố gắng học hỏi hay bắt chước chúng ta cách mấy đi nữa. Những thói xấu này giải thích tại sao người Việt Nam mà chúng ta vẫn luôn luôn tự hào là thông minh xuất chúng đến như vậy mà bây giờ lại trở nên một trong những dân tộc lụn bại, trầm luân nhứt thế giới, tính cho đến cuối thiên niên kỷ này. Những thói xấu của người mình thiệt ra khá nhiều, nhiều hơn mức bình thường. Người viết bài này chỉ gạn lọc và trình bày một số tính tiêu biểu đã gián tiếp hay trực tiếp đóng góp vào tình trạng đất nước Việt Nam ngày càng xơ xác, tiêu điều, các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại ngày càng tiếp tục chia rẽ, phân hóa tưởng như không bao giờ hàn gắn được”.
Rồi trước khi phân tích, chứng minh, tác giả nêu ra một loạt những thói xấu ông cho là tiêu biểu: không tôn trọng sự thực và lẽ phải; khoe khoang và kiêu ngạo; cố chấp và ngoan cố; độc tôn; kỳ thị; tàn ác; thiếu cao thượng và ưa chơi gác; phe đảng; thiển cận; ganh ghét; thích làm vua làm chúa; không công 33 tâm; không tôn trọng luật lệ; cướp công của người khác; ưa nịnh bợ, tâng bốc; thích ăn hối lộ; tham lam; không tôn trọng nguyên tắc và giờ giấc; không tuân giữ các cam kết…
Căn cứ vào những ý kiến có được từ một số diễn đàn “xét tật mình”/ “thói hư tật xấu người Việt” do các báo Tuổi trẻ, Tiền phong (online) và vài trang mạng xã hội khác thực hiện trong khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4/2014, chúng tôi xin phép được lượm lặt để bổ sung vào hai bảng danh mục nêu trên, về đủ loại thói hư tật xấu/ căn bệnh tư tưởng của người Việt chúng ta hiện nay (tên gọi những thói hư tật xấu có đánh dấu hoa thị * bên trên là do chúng tôi ghi nhận thêm). Có thể kể với sự phân loại tương đối như sau:
Thói xấu thuộc hành vi cá nhân: Đua đòi (ai cũng muốn sắm xe máy, điện thoại di động…);* Thích người này hát để người khác khen hay, cùng nhau vỗ tay khen thưởng; Thói hiếu kỳ, bàng quan (“xúm đông, xúm đỏ” mỗi khi có tai nạn giao thông, đám đông hiếu kỳ bu xem…); Bàn tán chuyện ngoài đường chẳng dính đến mình; Tò mò, thích kể chuyện đời tư người khác; * Tật ngồi lê đôi mách;* Mừng trên sự thất bại của người khác;* Thích công kích người khác theo kiểu nhạo báng chua cay, châm chích rẻ tiền;* Nhặt được của rơi không trả;* Lời lẽ xúc phạm thiếu văn hóa trong hoạt động nghiên cứu (như gọi vua Gia Long là “y” là “hắn”, gọi phe đối nghịch với mình là thằng này bọn nọ…);* Khiêm tốn quá mức; Nói về người khác nhiều mà ít suy nghĩ về chính bản thân mình; Quan cách, khách sáo; Tính ghen ghét, tùy tiện; A dua, tát nước theo mưa; Láu cá (kiểu Trạng Quỳnh…); Không muốn ai hơn mình (cái gì cũng muốn phải hơn người khác, người này mở nhạc thì người khác phải mở to hơn…); Ghét người giàu;* Nói xấu sau lưng người khác;* Háo danh (thích được tuyên dương, nhận giấy khen, bằng khen…);* Hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục; Hay cãi vã; Chửi thề (kể cả học sinh nữ…);* Dốt hay nói chữ;* Tốt khoe xấu che; Dối trá; Nói đâm vào họng kẻ khác;* Sĩ diện không đúng chỗ (sĩ diện hão); Tham lam nhỏ mọn vô lối (tranh giành nhau từng tấc đất…);* Tài khôn (khôn vặt, ưa tỏ ra mình giỏi);* Lúng túng, không tự nhiên khi giao tiếp; Hay cậy thế nhờ vả họ hàng và quan chức; Nói nước đôi lập lờ không rõ ràng;* Dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng; Xởi lởi, chiều khách, song không bền; Hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời); Mất đoàn kết, tương thân, tương ái khi có điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn; Không tiết kiệm hay tâm lý thích tiêu xài phung phí; Thích hưởng thụ mà không chịu trả phí (thích xài mọi thứ nhưng không muốn mất tiền, sử dụng điện thoại “chùa” nơi công sở…); Thói giả dối hay căn bệnh “sống hai cuộc sống” …
Thói xấu trong sinh hoạt: Quá coi trọng chuyện ăn uống (thôi nôi, sinh nhật, mừng thi đỗ, mừng có việc làm, mừng trúng thầu dự án, mừng mua xe mới nhà mới…); Ngồi các kiểu ở chỗ đông người; Lãng phí thời gian (ngồi lê đôi mách, nhậu nhẹt quá mức không biết tiết kiệm thời giờ vàng bạc); “Ăn nhanh, đi chậm, hay cười/ Thích “chơi đồ cổ” (mua đồ cũ) là người Việt Nam”; Cười nói to, ồn ào nơi công cộng; Thích tiếng động (kèn trống, đốt pháo…);* Khạc nhổ bừa bãi; Không có phong thái lịch sự khi giao tiếp (ít biết nói “cám ơn, xin lỗi, vui lòng…”); Phóng uế, tiểu tiện bừa bãi; Ăn uống/ ăn ở mất vệ sinh (chế biến 34 thực phẩm, cầu tiêu trên sông…); Xả rác tùy tiện (xả rác vô tội vạ, đổ nước bẩn ra đường…)…
Thói xấu trong ứng xử với cộng đồng: Đấu đá nghi kỵ lẫn nhau; Vô cảm (với nỗi khó khăn, cảnh khổ của người khác);* Không quan tâm tới luật lệ giao thông (vượt đèn đỏ, đi ngược chiều, chạy cho kịp giờ, chạy xe bạt mạng…); Ý thức chấp hành kỷ luật kém; Tính tùy tiện vô tổ chức (tự do vô tội vạ); Ý thức cộng đồng kém (quảng cáo cột điện nhiều vô kể…); Ít chịu nhường nhịn (không cần xếp hàng gì cả, cố giành phần ưu tiên, chen lấn xô đẩy, giành giật, không biết nhường đường); Lợi mình hại người (lấy gà bị chết dịch mà đem bán, độn đinh vào tôm xuất khẩu…); Nói thách;* Cân thiếu;* Không biết giữ gìn tài sản công; Ý thức kém về bảo vệ môi trường...;
Thói xấu trong lề lối làm việc: Giải quyết vấn đề theo cảm tính chủ quan; Tham lợi nhỏ quên mất tai họa lớn; Chạy đua chỉ để phục vụ cho một sự kiện; Khúm núm với cấp trên, thượng đội hạ đạp; Làm việc gì cũng trước tạo mối “quan hệ” tốt; Tính cả nể và không công bằng; Thích ganh đua và chạy theo bệnh thành tích; Cái tôi đặt lên trên tập thể; Không dám chịu trách nhiệm những việc mình làm; Tinh thần hợp tác làm việc theo nhóm còn hạn chế; Khi đi công tác, người Việt rất nặng nề chuyện mua bán, quà cáp cho người nhà và đồng nghiệp; Không có thói quen truyền đạt những thông tin cần thiết cho người khác sau khi kết thúc công việc nào đó…
Thói xấu trong học tập, giáo dục-thi cử: Thi không trung thực (quay cóp, sử dụng “phao”, mang tài liệu vào phòng thi…);* Ai cũng muốn cho con vào đại học (coi thường ngành trung cấp/ cao đẳng chuyên môn);* Học gạo nhưng kém thực hành; Ít khi học “đến đầu đến đũa” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản…
Tính cách chung ngăn cản sự tiến bộ (các mặt hạn chế): Hời hợt, không sâu sắc; Tự ti; Thích khen sợ chê; Trọng tình; Bảo thủ, cực đoan; Lãng phí; Không cơ bản, sống theo kiểu “lắp ghép”; Dĩ hòa vi quý; Nhu nhược, sợ quyền lực; Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận; Thiếu tự tin và óc phê phán; Tính rụt rè; Có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động; Không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm); Óc vọng ngoại (sính dùng tiếng/ chữ nước ngoài, dùng hàng hiệu nước ngoài…);* Bệnh hình thức; Thiếu trách nhiệm cá nhân, thừa trách nhiệm tập thể; Thiếu thực tế; Thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng); Không biết mình xấu (có nhiều tật xấu, trong đó tật xấu nhất là… không ý thức được đó là những tật xấu, thấy xấu không sửa)…
Trên đây, qua nhiều nguồn tổng hợp từ các diễn đàn truyền thông, có lẽ chúng ta đã liệt kê chưa hết nhưng gần hết những thói hư tật xấu/ tính xấu/ khuyết tật/ căn bệnh tinh thần… bao gồm các mặt hạn chế đủ loại của người Việt nói chung, hay người Việt thường dân. Tuy nhiên, sẽ là rất thiếu sót nếu chúng ta không tách riêng ra để kể thêm về những thói xấu/ khuyết tật đặc biệt của “người Việt công quyền” gồm hết thảy những cán bộ công nhân viên chức làm việc trong các cơ quan ban ngành đoàn thể thuộc Đảng, Nhà nước, 35 cũng như trong các tổ chức kinh tế tập thể-quốc doanh, các tập đoàn kinh tế quốc doanh và tổng công ty…, vốn chịu sự chi phối cũng của chính các cơ quan ban ngành đoàn thể ấy. Bởi vì thói xấu người Việt nói chung (hay người Việt thường dân) không thể nào không ảnh hưởng hay phản chiếu trực tiếp vào cung cách, tác phong, thái độ làm việc của người Việt công quyền, bao gồm cả các nhà lãnh đạo kinh tế-chính trị-văn hóa-xã hội ở mọi cấp, bởi tất cả họ cũng đều “từ nhân dân mà ra”, chứ chẳng phải ai khác. Như thói gia trưởng chẳng hạn, khởi đầu từ gia đình, sau ảnh hưởng tới tác phong lãnh đạo của người cán bộ…
Kể về thói xấu/ khuyết tật đặc biệt của “người Việt công quyền” thì có lẽ số lượng không nhiều hơn so với của người Việt thường dân, nhưng thói xấu/ khuyết tật mà nằm trong số những kẻ có chức có quyền thì mức tác hại của chúng chắc chắn phải cao hơn. Đó chính là nguyên do tạo nên mọi thứ trì trệ làm cho đất nước phải bị kìm hãm lâu dài trong vòng chậm tiến. Hay nói một cách công bằng và chính xác hơn, cả hai hệ thói xấu/ khuyết tật nêu trên đã cộng hưởng lẫn nhau để phát tác tiêu cực.
Căn bệnh nặng nhất của người Việt công quyền là bệnh xơ cứng giáo điều cả về mặt tư tưởng lẫn hành động, khiến hầu hết những người làm việc trong bộ máy công quyền các cấp đều không dám công khai nói thẳng sự thật hay mở mũi đột phá khi cần thiết cho công việc vì luôn sợ bị chụp mũ về quan điểm lập trường, dẫn tới tình trạng ai cũng nhếch nhác rụt rè, giữ gìn ý tứ, từ đó triệt tiêu tất cả mọi sự thông minh và độc lập sáng tạo của cá nhân. Phương thức quyết định tập thể dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm tập thể. Khi có sự vụ gì hư hỏng, hoặc sai lầm xảy ra thì người ta cứ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, rốt cuộc không có ai là người đứng ra chịu trách nhiệm cụ thể cả, hoặc chỉ chịu trách nhiệm dưới hình thức “xin lỗi”, rồi xử lý nội bộ cho qua.
Kinh tế tập thể và nguyên tắc “quốc doanh chủ đạo” dẫn đến việc biến tài sản của chung thành “của chùa” mạnh ai nấy xà xẻo, từ đó cũng gây nên tình trạng vô trách nhiệm kiểu “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”, “cha chung không ai khóc”, vốn là gốc nguồn căn bản của tệ nạn vun quén cá nhân biểu hiện dưới hình thức ăn cắp của công, tham ô lãng phí, tham nhũng hối lộ ngày càng tăng và vô phương cứu chữa.
Bộ máy hành chính công quyền để quản lý xã hội hoạt động kém hiệu quả, trong điều kiện việc thực thi luật pháp thiếu minh bạch, đã gây nên quốc nạn tham nhũng gồm cả tham nhũng lớn lẫn tham nhũng vặt. Tham nhũng lớn liên quan số tiền hoặc tài sản trị giá hàng chục/ hàng trăm tỷ đồng, thường do các nhóm quan chức đặc quyền tương đối lớn câu kết với nhau; tham nhũng vặt phổ biến tại mọi tỉnh thành trên cả nước làm cho cả dân tộc hèn đi, được thực hiện dưới hình thức “lót tay”, “phong bì”, “bồi dưỡng”…, chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực hành chính, đặc biệt với cơ chế hành chính “xin-cho”, khi người dân có những việc cần xin phải đụng tới thủ tục, như xin việc làm ở cơ quan nhà nước, “xin” khám-chữa bệnh ở bệnh viện công, xin nhập/ chuyển hộ khẩu, xin giấy khai sinh/ khai tử, xin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xin giấy phép xây dựng, xin đi học…
Ngoài những thói xấu/ khuyết tật/ chứng bệnh nặng nêu trên, ở “người Việt công quyền”, còn có nhiều thứ đáng kể khác, rất phổ biến, tuy có phần ít “căn bản” hơn đôi chút nhưng tác hại của chúng hội tụ lại cũng vô cùng to lớn. Có thể kể ra hàng loạt: Thói giữ bí mật (không công khai nói ra cho dân biết, che giấu những sự thật không tốt); Chủ nghĩa lý lịch-thành phần; Bổ nhiệm nhân sự theo quan hệ người thân (họ hàng, bạn bè, “một người làm quan cả họ được nhờ”…); Bệnh sùng bái cá nhân; Óc gia trưởng; Bệnh tham quyền cố vị; Không có văn hóa từ chức; Sợ tới tuổi về hưu; Tha hóa quyền lực (dân tốt khi có chức quyền trở thành quan xấu…); Bệnh kết bè kéo cánh (óc bè phái/ phe đảng); Thói nịnh trên nạt dưới; Phê bình tố cáo, vạch nhau chuyện tủn mủn để tranh giành quyền lực/ quyền lợi (moi móc đời tư để hạ bệ nhau…); Óc cục bộ địa phương; Tư túi/ thu vén cá nhân; Sống giả dối hai mặt (ở cơ quan nói khác, về nhà nói khác…); Sử dụng bằng dỏm bằng giả; Bám sống theo cái nôi cơ quan nhà nước; Bệnh quan liêu hình thức; Thói quan liêu cửa quyền; Trấn áp dân chủ (không tôn trọng quyền tự do ngôn luận, bài trừ “ý kiến khác”…); Đì kẻ có tài hoặc khác với mình về quan điểm; Can thiệp vào hoạt động tư pháp (chỉ đạo xét xử, gởi gắm…); Sử dụng nhiều thủ đoạn đôi khi cả với dân; Bao che, câu kết kiểu phủ huyện bênh nhau; Nghi kỵ, rình rập, vạch lỗi của nhau trong quan hệ công tác; Hô khẩu hiệu suông; Hội họp triền miên; Báo cáo láo; Bệnh thành tích; Xử lý nội bộ (không xử phạt dựa trên luật pháp); Ngụy biện (ưa dùng những cụm từ như “căn bản tốt”, “hoàn thành căn bản”, “nơi này nơi khác vẫn còn không ít khuyết điểm”, “một số không nhỏ”…); Máu xôi thịt; Hám tổ chức những ngày lễ kỷ niệm và ăn theo cuộc lễ; Hám danh hão; Hám bằng khen, huân chương và các loại danh hiệu (thường xuyên tổ chức những cuộc thi đua khen thưởng); Sử dụng công quỹ bừa bãi sai mục đích; Thi hành công vụ/ giải quyết công việc trên bàn nhậu; Nhậu nhẹt trong giờ làm việc; Đãi đằng cấp trên (để mua chuộc tình cảm, vận động sự ủng hộ, giúp đỡ…); Quà cáp cho cấp trên (đặc biệt trong những ngày lễ tết)…