Thành viên:Chúc Thành/Note: Thơ nôm Lê Thánh Tông

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Cái chổi[sửa]

Lời chúa vâng truyền xuống ngọc giai

Cho làm lịnh tướng quét trần ai

Một tay vùng vẫy trời tung gió

Bốn cõi tung hoành đất sạch gai

Ngày vắng rủ mây cung bắc hán

Ðêm thanh dựa nguyệt chốn lâu đài

Ôm lòng gốc rễ lâu càng giãi

Mòn mỏi lưng còn một cái đai.

Vịnh bù nhìn[sửa]

Quyền trọng ra uy trấn cõi bờ

Vốn lòng vì nước há vì dưa

Xét soi trước mặt đôi vừng ngọc

Vùng vẫy trên tay một lá cờ

Dẹp giống chim muông xa phải lánh

Dể quân cầy cuốc gọi không thưa

Mặc ai nhảy nhót đường danh lợi

Ơn nước đầm đìa hạt móc mưa.

Cái nón[sửa]

Dáng tròn vành vạnh vốn không hư

Che chở bao la khắp bốn bờ

Khi để, tưởng nên dù với tán

Nên ra, thì nhạt nắng cùng mưa

Che đầu bao quản lòng tư túi

Giúp chúa nào quên nghĩ sớm trưa

Vòi vọi ngồi trên ngôi thượng đỉnh

Ai ai lớn nhỏ đội ơn nhờ.

Chó đá[sửa]

Quyền trọng ra oai trấn cõi bờ

Cửa nghiêm chem chẻm một mình ngồi

Quản bao sương tuyết nào chi kể

Khéo dử cao lương cũng chẳng nài

Mặc khách thị phi giương cháo mắt

Những lời trần tục biếng vào tai

Một lòng thờ chúa nghìn cân nặng

Bền vững ai lay cũng chẳng rời.

Cối xay[sửa]

Thóc lúa kho trời vẫn sẵn đầy

Tạc thành cái cối để mà xay

Thu tàng châu ngọc tư mùa đủ

Chuyển vận âm dương một máy xoay

Ðất phẳng nổi đùng cơn sấm động

Vùng to vung tóe hạt mưa bay

Ðem tài xoay xỏa ra thay đổi

Lợi dụng cho dân đủ tháng ngày.

Con cóc[sửa]

Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi

Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi

Chép miệng dăm ba con kiến gió

Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.

Con voi[sửa]

Xông pha bốn cõi bể chông gai

Vùng vẫy mười phương bụi cát bay

Phép nước gọi là tơ chỉ buộc

Sức này nào quản búa rìu lay.

Dệt cửi[sửa]

Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương

Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường

Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt

Gót vàng dậm đạp máy âm dương.

Người ăn mày[sửa]

Chẳng phải ăn đong chẳng phải vay

Lộc trời để lại được ăn mày

Hạt châu chúa cất cao ngang mặt

Bệ ngọc tôi từng đứng chắp tay

Nam, bắc, đông tây đều tới cửa

Trẻ, già, lớn, bé cũng xưng thầy

Ðến đâu dẹp hết loài muông cẩu

Thu cả kiền khôn một túi đầy.

Thằng mõ[sửa]

Mõ này cả tiếng lại dài hơi

Mẫn cán ra tay chẳng phải chơi

Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi

Kim thanh rền rĩ khắp đôi nơi

Trẻ già chốn chốn đều nghe lịnh

Làng nước ai ai phải cứ lời

Trên dưới quyền hành tay cắt đặt

Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi.

Thợ cạo[sửa]

Mở mặt trần gian ức vạn người

Ðông tây nam bắc phải làm tôi

Vài thanh gươm bạc xông trăm trận

Mấy chiếc qua vàng đóng một nơi

Kẻ trọng tam đồ hay bá gáy

Người cao nhất phẩm cũng cầm tai

Trăm năm tiêu sẵn kho vô tận

Xếp túi kiền khôn chỉ việc ngồi.

Ghi chú[sửa]

Chép lại từ poem, được cho là trích lại từ "Việt thi" của Trần Trọng Kim. Cần xác thực lại các thông tin... Riêng bài Vịnh bù nhìn chép lại từ trang khác với tên "Người bù nhìn."