The Beatles
Bản mẫu:Infobox musical artist The Beatles là ban nhạc rock người Anh hoạt động trong thập niên 1960. Với 4 thành viên John Lennon, Paul McCartney, George Harrison và Ringo Starr, bộ tứ trở thành nghệ sĩ thành công nhất và ảnh hưởng nhất thời kỳ huy hoàng của nhạc rock[1]. Khởi đầu với nhạc skiffle, beat và rock 'n' roll thập niên 1950, The Beatles sau đó đã chơi nhiều thể loại đa dạng, từ pop ballad tới psychedelic và hard rock, kết hợp với âm nhạc cổ điển theo nhiều cách khác nhau. Đầu những năm 1960, sự nổi tiếng của họ là nguồn gốc của hiện tượng Beatlemania, song cùng với sự phát triển trong quan điểm và cách viết nhạc, ban nhạc dần trở thành hiện thân của những ý tưởng thời kỳ giải phóng xã hội.
Từ năm 1960, The Beatles bắt đầu chơi nhạc tại các tụ điểm ở Liverpool và Hamburg trong suốt 3 năm. Nhà quản lý Brian Epstein đưa họ trở thành những nghệ sĩ chuyên nghiệp qua việc giới thiệu tiềm năng của nhóm tới nhà sản xuất George Martin. Họ sớm có được sự chú ý ở Anh ngay với đĩa đơn đầu tay "Love Me Do" vào cuối năm 1962. Ban nhạc được gán với tên gọi "Fab Four" trong quãng thời gian Beatlemania ngày một gia tăng tại Anh vào năm 1963, và tới năm 1964 họ trở thành ngôi sao nổi tiếng toàn thế giới, đưa British Invasion tới thị trường âm nhạc Mỹ. Kể từ năm 1965, The Beatles bắt đầu thu âm và thực hiện những kiệt tác xuất sắc nhất của họ, bao gồm những album vĩ đại nhất lịch sử âm nhạc thế giới như Rubber Soul (1965), Revolver (1966), Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band (1967), The Beatles (Album trắng, 1968) và Abbey Road (1969). Sau khi tan rã vào năm 1970, họ vẫn tiếp tục có được nhiều thành tựu. Lennon bị ám sát vào năm 1980, Harrison qua đời vì ung thư phổi vào năm 2001, 2 thành viên còn sống là McCartney và Starr tiếp tục những hoạt động dưới tên của ban nhạc.
Theo RIAA, The Beatles là nghệ sĩ có doanh số đĩa bán chạy nhất tại Mỹ với tổng cộng hơn 177 triệu đĩa đã bán. Họ cũng có nhiều album và đĩa đơn quán quân tại các bảng xếp hạng tại Anh hơn bất kể nghệ sĩ nào khác. Năm 2008, họ đứng đầu trong danh sách "Hot 100" các nghệ sĩ của tạp chí danh giá Billboard; và tới năm 2014, họ cũng là nghệ sĩ có nhiều đĩa đơn quán quân tại đây nhất với 20 đĩa đơn. The Beatles từng giành tới 10 giải Grammy, 1 giải Oscar cho nhạc phim hay nhất và 15 giải Ivor Novello. Có tên trong danh sách "Nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20" của tạp chí Time, họ cũng được nhắc tới là nghệ sĩ có số đĩa bán chạy nhất lịch sử với hơn 600 triệu đĩa đã bán trên toàn thế giới[2][3]. Năm 1998, tiểu hành tinh 8749 được đặt tên theo ban nhạc. Năm 2004, tạp chí Rolling Stone xếp The Beatles là nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại.
Mục lục
- 1 Lịch sử
- 2 Quan điểm âm nhạc
- 3 Tôn vinh
- 4 Giải thưởng và thành tựu
- 5 Danh sách đĩa nhạc
- 6 Tác quyền ca khúc
- 7 Ghi chú
- 8 Tham khảo
- 9 Thư mục
- 10 Liên kết ngoài
Lịch sử[sửa]
1957-1962: Thành lập, Hamburg và nổi tiếng tại nước Anh[sửa]
Tháng 3 năm 1957, cậu nhóc 16 tuổi John Lennon lập nên nhóm nhạc skiffle gồm những người bạn của cậu ở trường Quarry Bank. Họ tự gọi ban nhạc là The Blackjacks, rồi sau đó đổi tên thành The Quarrymen vì biết rằng cái tên kia đã được một ban nhạc khác dùngBản mẫu:Sfn. Cậu nhóc 15 tuổi Paul McCartney xin gia nhập trong vai trò guitar nền sau khi gặp Lennon vào tháng 7 cùng nămBản mẫu:Sfn. Tháng 2 năm 1958, McCartney rủ George Harrison tới xem ban nhạc trình diễn. Cậu nhóc 14 tuổi cảm thấy ấn tượng về Lennon, song Lennon cho rằng cậu quá nhỏ để tham gia cùng nhóm. Tuy nhiên sau những nỗ lực của Harrison, cuối cùng cậu cũng được vào chơi trong vai trò guitar leadBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Tháng 1 năm 1959, những người bạn cùng trường với Lennon rời nhóm, còn bản thân cậu tới học tại trường Nghệ thuật thành phố LiverpoolBản mẫu:Sfn. Ba tay guitar trẻ, lần này dưới tên Johnny and the MoondogsBản mẫu:Sfn, đi rong ruổi khắp nơi để chơi nhạc và tìm một tay trốngBản mẫu:Sfn. Người bạn cùng trường với Lennon, Stuart Sutcliffe – người đã phải bán vài bức tranh của mình để mua chiếc bass – gia nhập nhóm vào tháng 1 năm 1960, rồi gợi ý đổi tên thành The Beatals để tri ân tới Buddy Holly và The CricketsBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Họ dùng tên đó cho tới tháng 5 trước khi đổi thành The Silver Beetles, rồi được làm ban nhạc chơi lót cho ca sĩ Johnny Gentle trong một tour diễn ở Scotland. Đầu tháng 7, họ đổi tên lần nữa thành The Silver Beatles trước khi cuối cùng chọn cái tên The Beatles vào tháng 8 cùng nămBản mẫu:Sfn.
Allan Williams, quản lý không chính thức của The Beatles, thu xếp chỗ ăn ở cho nhóm để đi trình diễn tại Hamburg, nhưng vì chưa có tay trống, họ đành thuê Pete Best vào giữa tháng 8 năm 1960. Ban nhạc 5 người lên đường 4 ngày sau, kí hợp đồng với một quản lý câu lạc bộ người Đức, Bruno Koschmider[gc 1] – người giúp họ có chỗ ở trong suốt 3 tháng rưỡi sau đóBản mẫu:Sfn. Theo cây viết sử Mark Lewisohn, "họ tới Hamburg vào tối ngày 17 tháng 8, khi mà khu đèn đỏ bắt đầu hoạt động... với ánh đèn rực sáng của bao nhiêu hoạt động giải trí, với vô vàn những người đàn bà suồng sã ngồi không ngại ngần trước những cửa kính để chờ đợi đối tác."Bản mẫu:Sfn
Koschmider sở hữu 2 hộp đêm thoát y ở Hamburg, và ông quyết định để The Beatles trình diễn buổi đầu tại The Indra Club. Sau khi The Indra Club phải đóng cửa vì những lời phản ánh về tiếng ồn, ông đưa ban nhạc tới hộp đêm Kaiserkeller vào tháng 10Bản mẫu:Sfn. Sau khi ông biết rằng nhóm cũng chơi nhạc tại hộp đêm cạnh tranh Top Ten Club, Koschmider cho họ 1 tháng để giải quyết vấn đềBản mẫu:Sfn, ngoài ra cũng cảnh cáo Harrison khi biết cậu đã khai gian để được trình diễn dưới tuổi lao động ở ĐứcBản mẫu:Sfn. Harrison bị yêu cầu trục xuất vào cuối tháng 11Bản mẫu:Sfn. Chỉ 1 tuần sau, Koschmider nhận được lệnh bắt McCartney và Best sau khi họ cố ý gây cháy tấm thảm trong phòng, và rồi sau đó là quyết định trục xuấtBản mẫu:Sfn. Lennon trở lại Anh vào tháng 12, trong khi Sutcliffe quyết định ở lại Hamburg cùng cô gái mà anh đính hôn, Astrid KirchherrBản mẫu:Sfn – người chụp những bức ảnh bán chuyên nghiệp đầu tiên cho The BeatlesBản mẫu:Sfn.
Trong suốt 2 năm sau đó, The Beatles có những chuyến đi định kỳ ở Hamburg, nơi mà họ được tiếp xúc với preludin nhằm đảm bảo khả năng sáng tạo và cả thể lực cho những buổi diễn thâu đêmBản mẫu:Sfn. Năm 1961, trong lần thứ 2 ban nhạc tới đây, Kirchherr đã cắt kiểu tóc mới cho Sutcliffe theo phong cách "exi"[gc 2], rồi sau đó cho tất cả các thành viên của The BeatlesBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Sau khi Sutcliffe quyết định rời nhóm để theo học nghệ thuật ở Đức, McCartney chuyển sang chơi bassBản mẫu:Sfn. Nhà sản xuất Bert Kaempfert ký hợp đồng mới với ban nhạc 4 người vào tháng 7 năm 1962 và họ trở thành ban nhạc chơi lót cho Tony Sheridan trong khoảng thời gian ngắn sau đóBản mẫu:Sfn[gc 3].
Sau chuyến đi lần thứ 2 tới Hamburg, The Beatles bắt đầu có được chút tiếng tăm ở Liverpool với phong trào Merseybeat lan rộng. Tuy nhiên họ cũng bắt đầu cảm thấy nhàm chán vì phải trình diễn lặp đi lặp lại tại vài tụ điểm ngày qua ngàyBản mẫu:Sfn. Tháng 11 năm 1961, trong một lần diễn tại hộp đêm The Cavern Club, họ gây chú ý tới Brian Epstein, một doanh nhân trẻ tuổi sở hữu chuỗi cửa hàng lớn trong vùngBản mẫu:Sfn. Sau này, Epstein nhớ lại: "Tôi ngay lập tức thấy thích thú với những gì tôi được nghe. Họ trẻ trung, họ thật thà, và họ có những tố chất mà tôi nhìn thấy... của một ngôi sao."Bản mẫu:Sfn Epstein tiếp xúc với ban nhạc trong khoảng 2 tháng sau đó, và nhóm cũng đồng ý nhận ông làm quản lý vào tháng 1 năm 1962Bản mẫu:Sfn. Sau khi nghe thử vài bản thu âm, Decca Records từ chối sản xuất cho nhóm với lời bình "Mấy ban nhạc chơi guitar sắp chết cả rồi, thưa ngài Epstein."Bản mẫu:Sfn[gc 4] Bi kịch ập đến ngay khi họ quay trở lại Đức vào tháng 4, khi Kirchherr gặp họ ở sân bay để thông báo Sutcliffe vừa qua đời vào đêm hôm trước vì xuất huyết nãoBản mẫu:Sfn. Vận may cuối cùng đã tới khi 1 tháng sau, nhà sản xuất George Martin của hãng đĩa Parlophone đồng ý ký hợp đồng thu âm chính thức đầu tiên với The BeatlesBản mẫu:Sfn.
Những buổi thu đầu tiên của Martin với ban nhạc được thực hiện tại phòng thu Abbey Road Studios của EMI ngày 6 tháng 6 năm 1962Bản mẫu:Sfn. Martin lập tức than phiền với Epstein về cách chơi trống kém cỏi của Best và yêu cầu tìm kiếm một tay trống tạm thờiBản mẫu:Sfn. Vốn không hài lòng với thái độ của Best từ trước đóBản mẫu:Sfn, The Beatles quyết định sa thải anh vào giữa tháng 8 và thay thế bằng Ringo Starr, thành viên của nhóm Rory Storm and the HurricanesBản mẫu:Sfn. Ngày 4 tháng 9, họ thu âm ca khúc "Love Me Do" với Starr chơi trống, song Martin vẫn không hài lòng và tuyển Andy White trong buổi thu thứ 3 vào 1 tuần sau để thực hiện 3 ca khúc "Love Me Do", "Please Please Me" và "P.S. I Love You"Bản mẫu:Sfn. Martin đã chủ ý dùng bản thu với Starr chơi trống làm đĩa đơn cho ca khúc "Love Me Do" chứ không phải là phiên bản cuối cùng phát hành với White chơi trống và Starr chơi sắc-xôBản mẫu:Sfn. Được phát hành vào tháng 10, "Love Me Do" đạt vị trí số 17 tại bảng xếp hạng của Record RetailerBản mẫu:Sfn. Họ lần đầu lên truyền hình cũng trong tháng đó khi trình diễn trực tiếp trong chương trình tin tức People and PlacesBản mẫu:Sfn. Một buổi thu nữa vào cuối tháng 11 giúp họ hoàn tất ca khúc "Please Please Me"Bản mẫu:Sfn mà Martin khẳng định: "Đây sẽ hẳn là ca khúc quán quân đầu tiên [của ban nhạc]."Bản mẫu:Sfn
Tháng 12 năm 1962, The Beatles thực hiện chuyến lưu diễn thứ 5 và cuối cùng của họ ở HamburgBản mẫu:Sfn. Năm 1963, tất cả đạt đồng thuận rằng cả 4 thành viên đều tham gia góp giọng trong các album của nhóm – bao gồm cả Starr dù giọng anh khá hạn chế – nhằm đảm bảo tính linh hoạt cho ban nhạcBản mẫu:Sfn. Lennon và McCartney bắt đầu cộng tác viết nhạc, và cùng với thành công của ban nhạc, đóng góp của bộ đôi trên vô tình đã kìm hãm khả năng sáng tác cũng như hát chính của HarrisonBản mẫu:Sfn. Epstein, trong nỗ lực gây dựng hình ảnh của The Beatles, đã yêu cầu ban nhạc thể hiện thái độ trình diễn chuyên nghiệp hơnBản mẫu:Sfn. Lennon nhớ lại những gì Epstein nói: "Nhìn xem, nếu cậu muốn tới một nơi tốt hơn thì cậu phải thay đổi thôi – đừng ăn uống trên sân khấu, đừng có chửi thề, đừng hút thuốc,..."Bản mẫu:Sfn Lennon nhấn mạnh: "Chúng tôi sẽ mặc những gì chúng tôi muốn, trong và ngoài sân khấu. Ông ấy [Epstein] cho rằng mặc quần bò trông không thông minh và đề nghị chúng tôi mặc quần âu, nhưng ông ấy lại không muốn chúng tôi mặc nó tới mức phẳng phiu. Ông ấy muốn chúng tôi vẫn thoải mái trong khuôn khổ cá nhân."Bản mẫu:Sfn
1963-1966: Beatlemania và những năm lưu diễn[sửa]
Please Please Me và With the Beatles[sửa]
Ngày 11 tháng 2 năm 1963, The Beatles thu âm cùng lúc 10 ca khúc cho album đầu tay của họ, Please Please Me. Album bổ sung 4 ca khúc mà trước đó họ đã phát hành trong 2 đĩa đơnBản mẫu:Sfn[gc 5]. Sau thành công của "Love Me Do", tới lượt "Please Please Me" cũng nhận được những đánh giá tích cực: được phát hành vào tháng 1, ca khúc đạt được vị trí quán quân tại hầu hết các bảng xếp hạng ở London ngoại trừ của Record Retailer, nơi mà nó chỉ có được vị trí số 2Bản mẫu:Sfn. Nhớ lại việc The Beatles đã "gấp rút thực hiện" album đầu tay và cho ra mắt Please Please Me, nhà báo Stephen Thomas Erlewine của Allmusic bình luận: "Hàng thập kỷ sau ngày phát hành, album vẫn cho thấy sự tươi trẻ trong nó, đặc biệt ở tính căn nguyên."Bản mẫu:Sfn Lennon có nói chút suy nghĩ về việc sáng tác trong quãng thời gian đó: anh và McCartney "chỉ cố gắng viết nhạc à la Everly Brothers, à la Buddy Holly[gc 6] – những ca khúc pop mà không có ý nghĩa gì trong đó – để viết nhạc. Còn ca từ thì nhìn chung không đáng để ý."Bản mẫu:Sfn
Được phát hành vào tháng 3 năm 1963, album trên khởi đầu cho chuỗi 11 album quán quân trong tổng số 12 album phòng thu mà ban nhạc phát hành tại AnhBản mẫu:Sfn. Đĩa đơn thứ ba của nhóm, "From Me to You", được ra mắt vào tháng 4 và cũng đạt được những thứ hạng cao: đây cũng chính là đĩa đơn đầu tiên trong tổng số 17 đĩa đơn quán quân tại Anh của The Beatles, ngoài ra còn có 1 đĩa đơn thứ 18 được phát hành vào năm 1976Bản mẫu:Sfn. Tới tháng 8, đĩa đơn thứ 4, "She Loves You", trở thành đĩa đơn bán chạy nhất nước Anh vào thời điểm đó khi bán được 750.000 bản chỉ trong vòng 4 tuầnBản mẫu:Sfn. Sau đó nó cũng trở thành đĩa đơn đầu tiên đạt mốc 1 triệu bản cho tới khi bị đĩa đơn "Mull of Kintyre" của Paul McCartney vượt qua vào năm 1978Bản mẫu:Sfn. Thành công đột ngột của ban nhạc trở thành tâm điểm của báo chí mà The Beatles đáp lại với một thái độ vừa châm chọc vừa dửng dưng, khác biệt hoàn toàn với những hiện tượng nhạc pop lúc bấy giờ, và điều đó càng khiến công chúng quan tâm hơnBản mẫu:Sfn[gc 7]. Cùng với tiếng tăm ngày một lớn, những lời tán tụng mê muội cũng bắt đầu xuất hiện. Hào hứng với những tiếng ồn ào từ sự phấn khích của khán giả, báo chí bắt đầu nhắc tới khái niệm BeatlemaniaBản mẫu:Sfn[gc 8].
Cuối tháng 10, The Beatles bắt đầu đi tour tại Thụy Điển – chuyến lưu diễn nước ngoài đầu tiên của họ kể từ chuyến đi cuối cùng tới Hamburg vào tháng 12 năm 1962Bản mẫu:Sfn. Khi họ quay trở lại Anh, theo Lewisohn, "hàng trăm khán giả điên loạn" chào đón họ dưới cơn mưa ở sân bay Heathrow. Khoảng 50 tới 100 phóng viên và nhiếp ảnh gia cũng có mặt theo đoàn tiếp đón từ BBC: đây cũng là lần đầu tiên cho hơn 100 sự kiện tương tự sau nàyBản mẫu:Sfn. Ngày hôm sau, ban nhạc bắt đầu thực hiện tour diễn thứ 4 vòng quanh nước Anh chỉ trong vòng 9 tháng, và lần này tour diễn kéo dài 4 tuầnBản mẫu:Sfn. Tới giữa tháng 11, khi Beatlemania ngày một lớn, cảnh sát đã được huy động để dùng vòi rồng trấn áp đám đông quá khích trong buổi diễn của họ tại PlymouthBản mẫu:Sfn.
Please Please Me giành vị trí quán quân tại Record Retailer trong 30 tuần, bị thay thế bởi album thứ hai của nhóm With the Beatles – sản phẩm được EMI trì hoãn ngày phát hành chỉ khi doanh số của Please Please Me có dấu hiệu đi xuốngBản mẫu:Sfn[gc 9]. Được thực hiện giữa tháng 7 và tháng 10, With the Beatles đã áp dụng nhiều kỹ thuật phòng thu hơnBản mẫu:Sfn. Nó giữ vị trí quán quân trong 21 tuần và tồn tại trong bảng xếp hạng suốt 40 tuầnBản mẫu:Sfn. Erlewine viết về bản LP này là "phần tiếp theo của đặc cấp cao nhất – thứ tốt hơn cả sản phẩm trước đó."Bản mẫu:Sfn[gc 10] Album gây được sự chú ý tới cây viết William Mann của tạp chí The Times, người cho rằng Lennon và McCartney là "những nhạc sĩ sáng tác xuất sắc nhất nước Anh năm 1963"Bản mẫu:Sfn. Tờ báo cũng cho đăng loạt bài viết của Mann với những phân tích chi tiết về phần nhạc cùng nhiều sự tôn trọng đáng kểBản mẫu:Sfn. With the Beatles trở thành album thứ 2 trong lịch sử nước Anh đạt mốc 1 triệu bản, trước đó vốn chỉ là kỷ lục của album soundtrack phim South Pacific (1958)Bản mẫu:Sfn. Khi viết lời tựa cho phần bìa album, quản lý hình ảnh của nhóm, Tony Barrow, đã dùng cụm từ "fabulous foursome", sau này được viết tắt thành "Fab Four"[gc 11] và trở thành tên gọi thân mật mà báo chí dùng với The BeatlesBản mẫu:Sfn.
British Invasion[sửa]
Nhà phân phối của EMI, Capitol Records, vốn ban đầu không muốn phát hành các sản phẩm của The Beatles tại Mỹ bằng việc từ chối quảng bá những ca khúc của nhóm, bao gồm cả 3 đĩa đơn đầu tay của họ. Những thương thảo với những hãng đĩa tự do cạnh tranh như Vee-Jay và Swan Records cuối cùng cũng giúp ban nhạc xuất hiện tại thị trường Mỹ vào năm 1963Bản mẫu:Sfn, song những vấn đề bản quyền và quyền lợi quảng cáo lại là trở ngại lớn để đảm bảo thành công lâu dài cho The Beatles tại đâyBản mẫu:Sfn[gc 12]. Thành công trên các bảng xếp hạng bắt đầu tới khi Epstein quyết định thực hiện một chiến dịch quảng bá công phu vào giữa tháng 11 với số tiền khổng lồ vào thời điểm đó, 40.000 $, nhằm đưa các ca khúc lên sóng phát thanh qua sự hỗ trợ của DJ Carrol James. Tới cuối tháng, ban nhạc được giới thiệu tới vùng Tidewater ở bang Virginia qua DJ Gene Loving của đài WGH-AM, theo kèm là những thông tin và cả áo phát tặng. Chỉ vài ngày sau, hầu hết các ca khúc trên sóng phát thanh là của The Beatles. Nhưng cũng phải đến cuối tháng 1 năm 1964, các ca khúc của họ mới được phát sóng tại New York, và rồi sau đó là trên toàn nước Mỹ với sức lan tỏa mạnh mẽ qua các đài phát thanh. Việc nhu cầu thính giả gia tăng nhanh chóng buộc Capitol Records phải gấp rút hoàn tất việc phát hành đĩa đơn "I Want to Hold Your Hand" chỉ 1 tháng sau ngày phát hành ở AnhBản mẫu:Sfn. Được phát hành vào ngày 26 tháng 12 năm 1963, cùng với việc ban nhạc dự định tới Mỹ 3 tuần sau đó, "I Want to Hold Your Hand" nhờ đó đã bán được tới 1 triệu bản và dĩ nhiên trở thành đĩa đơn quán quân cho tới tận giữa tháng 1Bản mẫu:Sfn.
Bản mẫu:Listen Ngày 7 tháng 2 năm 1964, The Beatles rời nước Anh tạm biệt 4.000 người hâm mộ tại sân bay HeathrowBản mẫu:Sfn. Khi bước xuống sân bây John F. Kennedy ở thành phố New York, đã có khoảng 3.000 người tới chờ đón họBản mẫu:Sfn. Ban nhạc lên sóng truyền hình trực tiếp trong chương trình The Ed Sullivan Show ngày 9 tháng 2, thu hút tới 75 triệu người xem, tương đương với 23 triệu hộ gia đìnhBản mẫu:Sfn và 34% dân số Mỹ lúc đó. Cây viết sử Jonathan Gould cho rằng, theo đánh giá từ Nielsen Company, đây là "chương trình được chú ý nhất lịch sử ngành truyền hình Mỹ"Bản mẫu:Sfn. Sáng ngày hôm sau, The Beatles tỉnh dậy với hầu hết là những đánh giá tiêu cực và thất vọng trên toàn nước MỹBản mẫu:Sfn, song buổi diễn đầu tiên của họ diễn ra vài ngày sau đó vẫn làm nổ tung sân khấu Washington ColiseumBản mẫu:Sfn. Trở lại New York, họ cũng nhận được điều tương tự khi trình diễn 2 buổi tại Carnegie HallBản mẫu:Sfn. Ban nhạc tiếp đó bay tới Florida và xuất hiện trong chương trình The Ed Sullivan Show lần thứ 2, với khoảng 70 triệu người xem trực tiếp, trước khi quay trở lại Anh vào ngày 22 tháng 2Bản mẫu:Sfn.
A Hard Day's Night[sửa]
Sự thiếu quan tâm của Capitol Records tới ban nhạc là cơ hội ngàn vàng cho đối thủ cạnh tranh trực tiếp của họ, United Artists Records, thúc giục hãng phim của mình đề nghị tới The Beatles một hợp đồng làm phim, trong đó có những ưu đãi đặc biệt với phần soundtrackBản mẫu:Sfn. Được đạo diễn bởi Richard Lester, bộ phim A Hard Day's Night chiếm trọn 6 tuần của ban nhạc trong khoảng từ tháng 3-4 năm 1964 mà trong đó họ vào vai chính mình dưới dạng phim ca nhạc tài liệuBản mẫu:Sfn. A Hard Day's Night giúp ban nhạc giành được những đề cử Oscar và Grammy đầu tiên, trong đó có Kịch bản xuất sắc nhất và Nhạc phim xuất sắc nhất[4]. Bộ phim được trình chiếu lần đầu tại London và New York với thành công vang dội trên toàn thế giới, theo kèm là nhiều đánh giá so sánh họ với Marx BrothersBản mẫu:Sfn. Erlewine đánh giá cao album soundtrack từ bộ phim, A Hard Day's Night, và cho rằng đã nhìn thấy "chính họ trong dáng vẻ một ban nhạc. Tất cả những điều nổi bật nhất trong 2 album trước đó của họ đã được dung hòa lại thành thứ âm thanh bừng sáng, hân hoan và căn nguyên, hòa hợp với tiếng guitar rung rinh và giai điệu cuốn hút."Bản mẫu:Sfn "Tiếng guitar rung rinh" đó là chiếc Rickenbacker 360/12 12-dây của Harrison vốn được nhà sản xuất thiết kế riêng để tặng anh, và album này là lần đầu tiên anh có cơ hội thu âm với nóBản mẫu:Sfn[gc 13].
Đầu tháng 4 năm 1964, The Beatles chiếm tới 12 vị trí trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trong đó bao gồm cả 5 ca khúc quán quânBản mẫu:Sfn[gc 14]. Thành công của họ làm gia tăng mối quan tâm của công chúng tới âm nhạc Anh quốc, và nhiều nghệ sĩ khác nhờ đó cũng bắt đầu xuất hiện tại các bảng xếp hạng của Mỹ, có được thành công khi đi tour trong suốt 3 năm sau đó – quãng thời gian mà báo chí đặt tên British InvasionBản mẫu:Sfn. Kiểu tóc của ban nhạc, vốn bị coi là cổ lỗ từ lâu và luôn bị chế giễu bởi những người lớn tuổi, trở thành biểu tượng của làn sóng mới trong văn hóa của lớp trẻBản mẫu:Sfn.
The Beatles đi tour vòng quanh thế giới suốt tháng 7 và tháng 8 năm 1964, diễn tổng cộng tới 37 buổi chỉ trong 27 ngày tại Đan Mạch, Hà Lan, Hồng Kông, Úc và New ZealandBản mẫu:Sfn[gc 15]. Tháng 8, họ quay trở lại Mỹ, trình diễn 30 buổi tại 23 thành phốBản mẫu:Sfn. Một lần nữa có được sự quan tâm rất lớn từ công chúng, tour diễn một tháng lần này thu hút được từ 10-20.000 khán giả cho mỗi buổi diễn kéo dài chỉ trong 30 phút tại các thành phố từ San Francisco tới New YorkBản mẫu:Sfn.
Tháng 8, nhà báo Al Aronowitz thu xếp cho The Beatles gặp gỡ Bob DylanBản mẫu:Sfn. Tới thăm ban nhạc tại khách sạn ở New York, Dylan đã giới thiệu cho họ cần saBản mẫu:Sfn. Gould quan tâm tới những mối liên quan giữa âm nhạc và văn hóa trong buổi gặp gỡ này mà theo đó, mỗi nghệ sĩ có tầng lớp người hâm mộ "thuộc về 2 thế giới hoàn toàn khác nhau": với Dylan là "những cậu nhóc nghệ sĩ và trí tuệ, lý tưởng hóa các quan điểm chính trị và xã hội, và theo phong cách bohemian ôn hòa", còn với The Beatles là "những đứa nhóc mới lớn[gc 16] – những cô cậu nhóc trung học sống trong thứ văn hóa được thương mại hóa bởi truyền hình, phát thanh, nhạc pop, tạp chí và thời trang. Với họ, ban nhạc là thần tượng, chứ không phải người lý tưởng hóa."Bản mẫu:Sfn Sau 6 tháng quen biết, Gould viết, "Lennon muốn thu âm theo cách bắt chước giọng mũi bè, tiếng đàn mỏng manh và những nhân vật nội tâm đa dạng của Dylan."Bản mẫu:Sfn Khoảng 1 năm kể từ ngày gặp gỡ, Dylan muốn "tiến lên, với sự trợ giúp của ban nhạc 5 người cùng chiếc Fender Stratocaster điện để đuổi những kẻ mất trí cuồng nhạc folk thuần túy ra khỏi hình tượng của anh ấy... sự khác biệt giữa tầng lớp nghe nhạc folk và nhạc rock gần như ảnh hưởng trực tiếp tới những tầng lớp khán giả [của ban nhạc]... [ý định này] cho thấy những dấu hiệu khả quan."Bản mẫu:Sfn[gc 17]
Beatles for Sale, Help! và Rubber Soul[sửa]
Bản mẫu:Listen Theo Gould, album thứ tư của nhóm, Beatles for Sale, là minh chứng rõ ràng cho sự đối lập giữa những áp lực thành công về mặt thương mại và những dự án âm nhạc tham vọng của The BeatlesBản mẫu:Sfn. Họ dự định thu âm album trong khoảng tháng 8-10 năm 1964Bản mẫu:Sfn, tiếp tục thực hiện theo cách giống với A Hard Day's Night vốn chỉ bao gồm toàn các sáng tác của riêng họBản mẫu:Sfn. Ban nhạc thực tế đã kiệt sức để hoàn thiện các ca khúc ở album trên, mặt khác việc đi tour với những ca khúc đó lại là một thách thức thực sự với thành công của họ. Lennon thừa nhận: "Các sáng tác đang trở thành vấn đề nghiêm trọng."Bản mẫu:Sfn Cũng vì thế, 6 ca khúc khác được chọn xen lẫn trong Beatles for Sale. Được phát hành vào đầu tháng 12 năm 1964, album tiếp tục thành công và một lần nữa cho thấy những tiến bộ vượt bậc trong sáng tác của bộ đôi Lennon-McCartneyBản mẫu:Sfn.
Đầu năm 1965, khi mời ban nhạc tới nhà ăn tối, bác sĩ nha khoa của Lennon và Harrison đã bí mật cho chất LSD[gc 18] vào trong tách cà phê của họ. Lennon nhớ lại: "Nó thật kinh khủng, nhưng nó thật tuyệt diệu. Tôi đã ngây ngất suốt 1-2 tháng liền."Bản mẫu:Sfn Anh và Harrison lập tức thường xuyên sử dụng LSD, rồi sau đó là Starr trong vài dịp đặc biệt. McCartney ban đầu từ chối việc thử LSD, song rốt cuộc cũng sử dụng nó vào cuối năm 1966Bản mẫu:Sfn. Anh trở thành Beatle đầu tiên công khai tuyên bố sử dụng ma túy trước công chúng khi trả lời trên báo chí rằng nó giúp "khai sáng" anh, giúp anh "trở nên một người tốt hơn, trung thực hơn, vị tha hơn với xã hội"Bản mẫu:Sfn.
Tháng 4 năm 1965, The Beatles được trao Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất. Tranh cãi nổ ra khi vào tháng 6 năm 1965, nữ hoàng Elizabeth II tước phong danh hiệu Thành viên Hoàng gia Anh (MBE) cho ban nhạc sau khi được đích thân Thủ tướng Harold Wilson đề cửBản mẫu:Sfn. Thực tế vào thời điểm đó, đây là một danh hiệu vốn chỉ dành cho quân nhân và quan chức công vụ, và để phản đối, nhiều MBE bảo thủ đã quyết định trả lại tước vị mà họ từng được traoBản mẫu:Sfn.
Được ra mắt vào tháng 7 năm 1965, bộ phim thứ hai của The Beatles, Help!, tiếp tục được đạo diễn bởi Lester. Được miêu tả là "sản phẩm chế nhạo Bond"Bản mẫu:Sfn, bộ phim có được những phản ứng lẫn lộn từ giới phê bình và bản thân ban nhạc. McCartney nói: "Help! xuất sắc nhưng đó không phải là bộ phim của chúng tôi: chúng tôi tham gia như thể những diễn viên phụ. Nó rất vui nhộn, song về ý tưởng có vẻ có chút sai lầm."Bản mẫu:Sfn Phần soundtrack gồm hầu hết các sáng tác của Lennon khi anh viết nên ca khúc tiêu đề phim, cùng với đó là 2 đĩa đơn của nhóm, "Help!" và "Ticket to Ride"Bản mẫu:Sfn. Album theo kèm trở thành bản LP thứ năm của ban nhạc, bao gồm trong đó những ca khúc hát lại là "Act Naturally" và "Dizzy Miss Lizzy": đây cũng là những ca khúc cuối cùng mà The Beatles hát những sáng tác không phải của họ, ngoại trừ bản hát lại ca khúc dân ca truyền thống của Liverpool, "Maggie Mae", trong album Let It Be sau nàyBản mẫu:Sfn. Với Help!, ban nhạc cũng bắt đầu thử nghiệm kỹ thuật thu âm nhiều lần phần hát bên cạnh việc sử dụng nhiều nhạc cụ cổ điển trong hòa âm, tiêu biểu là dàn tứ tấu dây trong ca khúc bất tử "Yesterday"Bản mẫu:Sfn. Được viết bởi McCartney, "Yesterday" có lẽ là ca khúc từng được hát lại nhiều nhất lịch sử âm nhạcBản mẫu:Sfn[gc 19].
Tour diễn lần thứ 3 tại Mỹ của ban nhạc được mở đầu với buổi diễn kỷ lục thế giới 56.000 khán giả tại sân vận động Shea Stadium ở New York ngày 15 tháng 8 năm 1965 – "có lẽ là một trong những buổi diễn nổi tiếng nhất của The Beatles", Lewisohn viếtBản mẫu:Sfn – tiếp theo đó là 9 buổi diễn thành công khác ở nhiều thành phố khác nhau. Trong buổi diễn ở Atlanta, The Beatles lần đầu sử dụng hệ thống loa vọng ngược đặt trên sân khấu. Kết thúc tour diễn, họ có cơ hội được gặp Elvis Presley – một trong những người ảnh hưởng nhất tới họ – khi ông mời tất cả tới nhà riêng tại Beverly HillsBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn[gc 20].
Giữa tháng 10 năm 1965, The Beatles quay trở lại phòng thu: lần đầu tiên kế hoạch thu âm của họ phải kéo dài hơn dự tính mà không vì bất cứ ràng buộc hợp đồng nàoBản mẫu:Sfn. Được phát hành vào tháng 12, Rubber Soul, có được thành công vang dội về chuyên môn và được coi là bước chuyển quan trọng của ban nhạc tới sự trưởng thành cùng thứ âm nhạc phức tạp hơnBản mẫu:Sfn. Chủ đề của họ cũng bắt đầu mở rộng khi quan tâm nhiều hơn tới các khía cạnh khác của tình yêu và triết họcBản mẫu:Sfn. 2 cây viết sử Peter Brown và Steven Gaines gán định hướng mới của họ với việc "The Beatles bắt đầu có thói quen dùng cần sa"Bản mẫu:Sfn, bổ sung bằng lời khẳng định từ ban nhạc: Lennon từng gọi đây là "album tốn kém"Bản mẫu:Sfn, trong khi Starr nhớ lại: "Cỏ thực sự ảnh hưởng lớn tới những thay đổi của chúng tôi, đặc biệt là tới những người viết nhạc. Và cũng bởi họ viết theo những chất liệu mới, vậy nên chúng tôi cũng phải chơi nhạc theo cách mới."Bản mẫu:Sfn Nếu như Help! giới thiệu nhạc rock đi cùng âm nhạc cổ điển của flute và dàn dây thì lần này Harrison đã mang tới cho thế giới cây đàn sitar trong ca khúc "Norwegian Wood (This Bird Has Flown)", đưa sự phát triển của nhạc rock xa hơn những giới hạn thông thường của nó. Cùng với việc ca từ của họ giàu tính nghệ thuật hơn, người nghe cũng bắt đầu tìm hiểu những ý nghĩa sâu xa của nó. Lennon bình luận về "Norwegian Wood": "Tôi chỉ cố gắng viết về một vụ ngoại tình... và nó như kiểu cần một màn khói mờ để tôi không phải nói ra vậy."Bản mẫu:Sfn
Hầu hết những ca khúc của Rubber Soul được sáng tác bởi bộ đôi Lennon-McCartneyBản mẫu:Sfn: cho dù vẫn có thể nhận ra điểm khác biệt trong những ca khúc của riêng họBản mẫu:Sfn, song cả 2 vẫn không ngừng trao đổi những ý kiến trong cách viết nhạc. Ca khúc "In My Life", sau này đều được mỗi người tuyên bố là sáng tác cá nhân, được coi là điểm sáng trong danh sách những sáng tác của Lennon-McCartneyBản mẫu:Sfn. Harrison gọi Rubber Soul là album yêu thích của mình, trong khi Starr gọi đây là "bản thu khởi đầu"Bản mẫu:Sfn. McCartney từng nói: "Chúng tôi đã có những thời kỳ đáng yêu, và đây là lúc để phát triển nó."Bản mẫu:Sfn Tuy nhiên, kỹ thuật viên âm thanh Norman Smith cũng nhấn mạnh rằng đây là thời điểm bắt đầu những tranh cãi trong ban nhạc – "sự cạnh tranh giữa Lennon và McCartney dần trở nên rõ ràng", ông viết, và "khi McCartney ngày một thể hiện thì George lại càng không có chỗ đứng."Bản mẫu:Sfn Năm 2003, tạp chí Rolling Stone xếp Rubber Soul ở vị trí số 5 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất" của họBản mẫu:Sfn, còn Richie Unterberger của Allmusic miêu tả đây là "một trong những sản phẩm folk rock kinh điển"Bản mẫu:Sfn.
1966-1970: Phòng thu, tranh cãi, đỉnh cao và tan rã[sửa]
Kết thúc những năm lưu diễn[sửa]
Tháng 6 năm 1966, album Yesterday and Today – một ấn bản tuyển chọn được Capitol Records biên tập và bày bán tại Mỹ – gây phẫn nộ với phần bìa khi chụp hình The Beatles trong trang phục đồ tể với vô số những miếng thịt giả cùng búp bê. Đây được coi là hành động trả đũa trước những đánh giá cho rằng Capitol đã "tàn sát" những ấn bản phát hành tại Mỹ của nhómBản mẫu:Sfn. Hàng ngàn bản LP sau đó đã được tái bản với phần bìa mới, trong khi album với phần bìa gốc sau này từng được bán đấu giá tới 10.500 $ vào tháng 12 năm 2005Bản mẫu:Sfn. Cùng lúc đó ở Anh, Harrison lần đầu được gặp gỡ bậc thầy đàn sitar, Ravi Shankar – người đồng ý gặp gỡ và chỉ dẫn anh chơi loại nhạc cụ nàyBản mẫu:Sfn.
Trong tour diễn tiếp theo tại Philippines sau sự kiện Yesterday and Today, The Beatles vô tình quên mất Đệ nhất phu nhân Imelda Marcos mời họ tới dùng bữa sáng tại Phủ Tổng thốngBản mẫu:Sfn. Khi tới nơi, Epstein buộc phải khôn ngoan từ chối nhận mình là quản lý của ban nhạc nhằm coi như mình chưa từng biết tới lời mời chính thức trênBản mẫu:Sfn. Song họ ngay lập tức nhận ra rằng gia đình Marcos không có thói quen chấp nhận việc lời mời của họ bị từ chối. Sự việc trở nên ầm ỹ và ban nhạc đã phải rất vất vả để được xuất cảnhBản mẫu:Sfn. Gần như ngay sau đó, ban nhạc có chuyến đi tới Ấn Độ lần đầu tiênBản mẫu:Sfn.
Ngay khi trở về nước, The Beatles liền nhận được những lời chỉ trích từ tín đồ tôn giáo và những người theo quan điểm cực đoan tại Mỹ (đặc biệt là Ku Klux Klan) khi Lennon trả lời bài phỏng vấn từ tháng 3 với nhà báo Maureen CleaveBản mẫu:Sfn: "Kitô giáo rồi sẽ biến mất. Nó sẽ bị phá hủy hoặc lu mờ... Giờ chúng tôi còn nổi tiếng hơn cả Chúa Jesus – tôi còn không rõ rằng cái gì sẽ biến mất trước, giữa rock 'n' roll và Kitô giáo. Chúa Jesus luôn đúng, nhưng quan điểm của ông là mờ mịt và tầm thường. Nghe những điều đó lẫn lộn vào nhau thực sự hủy hoại con người tôi."Bản mẫu:Sfn Những nhận xét này không được để ý tại Anh, song những độc giả trẻ tuổi của tờ Datebook tại Mỹ đã in nó ra khoảng 5 tháng sau, trước khi nhóm bắt đầu tour diễn tại đây, và nó dấy lên những tranh cãi trong cộng đồng người theo đạo ở "Bible Belt"Bản mẫu:Sfn. Vatican cũng lên tiếng phản đối ban nhạc và yêu cầu cấm mọi bản thu của The Beatles được phát trên sóng phát thanh tại Tây Ban Nha, Hà Lan cũng như Nam PhiBản mẫu:Sfn. Epstein chê trách Datebook đã ghi lại đoạn trò chuyện của Lennon trong một ngữ cảnh sai lệch. Tại buổi họp báo, Lennon khẳng định: "Nếu tôi cho rằng truyền hình còn được biết tới nhiều hơn cả Chúa Jesus, vậy hẳn tôi đã phải tránh xa nó."Bản mẫu:Sfn Lennon nhấn mạnh rằng anh đề cập tới vấn đề này nhằm nói về việc mọi người nhìn nhận như thế nào về thành công; và trước những gợi ý từ phóng viên, anh kết luận: "Nếu mọi người muốn tôi xin lỗi, nếu điều đó khiến mọi người vui, ok tôi xin lỗi."Bản mẫu:Sfn
Trong quá trình chuẩn bị cho tour diễn tại Mỹ, The Beatles nhận thấy rằng âm nhạc họ chơi thực tế rất khó nghe thấy được khi trình diễn trực tiếp. Vốn sử dụng bộ ampli Vox AC30, họ được cấp thêm một chiếc 100-watt mới cũng của Vox mà họ chỉ dành cho những buổi diễn tại sân khấu lớn từ năm 1964, song họ thấy vẫn không đủ hiệu quả. Bất lực trong việc cố gắng nghe rõ âm thanh giữa tiếng la hét từ người hâm mộ, ban nhạc ngày một chán nản trong việc tiếp tục đi diễnBản mẫu:Sfn. Nhận ra rằng các buổi diễn không còn mang tính âm nhạc nữa, ban nhạc quyết định rằng tour diễn tháng 8 năm 1966 là lần đi diễn cuối cùng của họBản mẫu:Sfn.
Revolver và Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band[sửa]
Bản mẫu:Listen Rubber Soul là bước ngoặt quan trọng; Revolver, được phát hành vào tháng 8 năm 1966 – đúng 1 tuần trước chuyến lưu diễn cuối cùng của The Beatles – là một bước ngoặt nữaBản mẫu:Sfn. Scott Plagenhoef từ Pitchfork Media nhận xét "âm thanh của ban nhạc đã đạt tới độ chín nhất" và "định nghĩa lại những gì mà âm nhạc quần chúng trông chờ"Bản mẫu:Sfn. Revolver được thực hiện với cách viết nhạc tinh vi, trải nghiệm phòng thu cùng những kỹ năng trình diễn tuyệt vời, sắp xếp hài hòa những cải tiến trong sự kết hợp giữa âm nhạc cổ điển với psychedelic rockBản mẫu:Sfn. Chia tay với cách chụp hình truyền thống, phần bìa lần này được thiết kế bởi Klaus Voormann – người bạn thân thiết của nhóm từ những ngày ở Hamburg – "một thứ lạnh lẽo, nghệ thuật, cắt dán trắng-đen khắc họa The Beatles theo kiểu nét vẽ bút mực của Aubrey Beardsley"Bản mẫu:Sfn. Album được quảng bá bởi đĩa đơn "Paperback Writer", mặt sau là ca khúc "Rain"Bản mẫu:Sfn. Vài đoạn phim ngắn được quay để giới thiệu cho đĩa đơn này, và theo nhà nghiên cứu văn hóa Saul Austerlitz, đó là "video ca nhạc thật sự đầu tiên của lịch sử"Bản mẫu:Sfn; chúng được trình chiếu trên các chương trình The Ed Sullivan Show và Top of the Pops vào tháng 6 cùng nămBản mẫu:Sfn.
Một trong những ca khúc thể nghiệm trong Revolver là "Tomorrow Never Knows" mà phần lời được Lennon lấy từ cuốn sách The Psychedelic Experience: A Manual Based on the Tibetan Book of the Dead của Timothy Leary. Bản thu được thực hiện với 8 băng thâu khác nhau, mỗi chiếc được thực hiện bởi kỹ thuật viên hoặc thành viên của ban nhạc, rồi theo đó mỗi người thay đổi hiệu ứng với phần thu âm để Martin tổng hợp lại những hiệu ứng khác nhauBản mẫu:Sfn. Ca khúc "Eleanor Rigby" của McCartney tiếp tục sử dụng dàn tứ tấu dây mà Gould miêu tả là "phép lai thực sự nhằm không nhận ra được phong cách hoặc thể loại của ca khúc"Bản mẫu:Sfn. Khả năng sáng tác của Harrison cũng tiến bộ khi có tới 3 ca khúc của anh được cho vào album nàyBản mẫu:Sfn. Năm 2003, Rolling Stone xếp Revolver ở vị trí số 3 trong danh sách những album vĩ đại nhất của họ. Tuy nhiên trong tour diễn tại Mỹ sau khi phát hành album, The Beatles lại không trình bày bất cứ ca khúc nào của album nàyBản mẫu:Sfn. Theo Chris Ingham, họ đã dành tâm trí quá nhiều vào "phòng thu... và không có một hình mẫu nào khác cho một nhóm rock 'n' roll 4 người để có thể thuyết phục được họ, đặc biệt giữa biển người hâm mộ gào thét vốn chỉ làm họ mất đi sự nhạy cảm. "The Beatles trên sân khấu" và "The Beatles của phòng thu" đã trở thành 2 khái niệm hoàn toàn khác biệt."Bản mẫu:Sfn Buổi diễn cuối cùng của ban nhạc tại sân vận động Candlestick Park, San Francisco ngày 29 tháng 8 năm 1966Bản mẫu:Sfn đã chấm dứt 4 năm lưu diễn không ngừng nghỉ của nhóm với hơn 1.400 buổi diễn trên toàn thế giớiBản mẫu:Sfn.
Thoát khỏi những mối bận tâm từ việc đi tour, The Beatles liền tập trung hơn vào các thử nghiệm khi bắt đầu thu âm Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band vào cuối tháng 11 năm 1966Bản mẫu:Sfn. Theo kỹ thuật viên Geoff Emerick, thời gian hoàn thiện album tổng cộng là hơn 700 giờBản mẫu:Sfn. Ông nhớ lại mối quan tâm của ban nhạc "rằng mọi thứ trong Sgt. Pepper cần phải khác biệt. Chúng tôi có micro ngay bên dưới miệng những chiếc kèn và tai nghe đưa những âm thanh trực tiếp từ những chiếc micro của violin. Chúng tôi ưu tiên sử dụng nhiều máy làm dao động để thay đổi tốc độ chơi của từng nhạc cụ cũng như giọng hát, và chúng tôi có những băng thâu được cắt rời rồi lại được đính lại với nhau theo cách trái với thông thường hoặc bất kỳ cách nào khác thường nhất."Bản mẫu:Sfn Ví dụ điển hình là tuyệt tác "A Day in the Life" được thực hiện với dàn nhạc 40 ngườiBản mẫu:Sfn. Quá trình thu âm được quảng bá với đĩa đơn gồm 2 ca khúc không nằm trong album "Strawberry Fields Forever"/"Penny Lane" vào tháng 2 năm 1967Bản mẫu:Sfn. Sgt. Pepper được phát hành vào tháng 6 cùng nămBản mẫu:Sfn.
Sự phức tạp về âm nhạc, được thực hiện bởi kỹ thuật thu âm 4-băng, đã làm hầu hết nghệ sĩ đương thời sửng sốtBản mẫu:Sfn. Thủ lĩnh Brian Wilson của The Beach Boys, vốn đang trong thời kỳ giữa những vấn đề cá nhân và trục trặc trong dự án tham vọng Smile, đã hoàn toàn choáng váng khi nghe "Strawberry Fields" và quyết định từ bỏ mọi ý tưởng ban đầu để cạnh tranh với những người bạn thân thiết của mìnhBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Về chuyên môn, nhìn chung album được đánh giá cao một cách rộng rãiBản mẫu:Sfn. Gould viết:
- "Có một sự đồng thuận rộng khắp rằng The Beatles đã tạo nên một siêu phẩm nhạc pop: một sản phẩm thiên tài thực sự phong phú, chất lượng và dạt dào mà thứ tham vọng rõ nét cùng những tính căn nguyên khởi nguồn của nó đã được trải rộng ra tới mức tối đa, nâng tầm sự kỳ vọng từ trải nghiệm của thính giả. Về cơ bản, Sgt. Pepper là chất xúc tác cho việc bùng nổ những cấu trúc cần thiết cho một album nhạc rock vốn cần đòi hỏi cả về mặt thẩm mỹ cũng như kinh tế song không còn giống với thời bùng nổ nhạc pop bởi hiện tượng Elvis vào năm 1956 và ngay cả với Beatlemania vào năm 1963."Bản mẫu:Sfn
Sgt. Pepper cũng là album LP đầu tiên bao gồm phần lời hoàn chỉnh tất cả các ca khúc được ghi ở phần bìa sauBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Nội dung của chúng trở thành trọng tâm của rất nhiều nghiên cứu và đánh giá: vào cuối năm 1967, phần ca từ trên đã trở thành chủ đề trong những bài điều tra bởi nhiều nhà nghiên cứu văn học Mỹ, còn giáo sư người Anh, Richard Poirier, đã đánh giá sinh viên của mình "nghe thứ âm nhạc với đẳng cấp viết lời mà ông, với tư cách là người dạy Anh văn, cũng chỉ mong đạt được."Bản mẫu:Sfn Poirier cũng chỉ rõ thứ mà ông gọi là "sự tượng trưng pha trộn": "Thật là thiếu khôn ngoan nếu cho rằng họ chỉ biết làm có một việc và cũng chỉ có một phong cách duy nhất... Một thứ cảm xúc đối với sản phẩm này xem chừng là không đủ... Bất cứ cảm xúc riêng biệt nào đều có thể tồn tại trong những ngữ cảnh có vẻ như hoàn toàn đối lập nhau."Bản mẫu:Sfn McCartney từng nói vào thời điểm đó: "Chúng tôi viết những ca khúc. Chúng tôi biết chúng tôi cần diễn đạt những gì với chúng. Nhưng cứ mỗi tuần lại có người nói một điều gì đó mới, và bạn không thể phủ nhận điều ấy... Bạn chỉ cần tự đặt khả năng nhìn nhận của bạn tương xứng với khả năng bạn hiểu từng ca khúc."Bản mẫu:Sfn Sgt. Pepper giành được 4 trong tổng số 7 đề cử của giải Grammy năm 1968 và trở thành album nhạc rock đầu tiên được trao giải thưởng Album của năm[6]. Năm 2003, tạp chí Rolling Stone xếp đây là album vĩ đại nhất mọi thời đại trong danh sách của họBản mẫu:Sfn.
Phần bìa của Sgt. Pepper cũng là chủ đề trong nhiều bài nghiên cứuBản mẫu:Sfn. Phần trọng tâm được thiết kế bởi Peter Blake và Jann Haworth, miêu tả The Beatles trong vai ban nhạc tưởng tượng theo nhan đề albumBản mẫu:Sfn đứng giữa những nhân vật nổi tiếng đương thờiBản mẫu:Sfn. Bộ ria mép mà họ nuôi theo ý tưởng về những người hippieBản mẫu:Sfn được cây viết sử Jonathan Harris miêu tả "sự châm biếm rõ ràng và sặc sỡ về trang phục quân đội" cũng như "chống lại sự độc đoán và chống lại tính tổ chức"Bản mẫu:Sfn.
Ngày 25 tháng 6 năm 1967, The Beatles trình diễn đĩa đơn tiếp theo của họ, "All You Need Is Love", tới hơn 350 triệu người xem toàn cầu qua chương trình Our World – chương trình trực tiếp toàn thế giới đầu tiên của ngành truyền hìnhBản mẫu:Sfn. Được phát hành 1 tuần sau đó trong quãng thời gian Summer of Love, đĩa đơn đã trở thành thánh ca của giai đoạn nàyBản mẫu:Sfn. Chỉ 2 tháng sau, ban nhạc có sự mất mát lớn trực tiếp đưa họ tới thời kỳ rối loạn. Vốn chỉ gặp gỡ thiền sư Maharishi Mahesh Yogi ở London vào tối hôm trước, ngày 25 tháng 8 ban nhạc quyết định bay tới Bangor để tham gia khu thiền đặc biệt của ông. Đúng 2 ngày sau, trợ lý quản lý của nhóm, Peter Brown, gọi điện thông báo Epstein qua đờiBản mẫu:Sfn. Những điều tra cho thấy cái chết là do ông bị sốc khi dùng ma túy, song nhiều tin đồn cho rằng thực chất Epstein đã tự tửBản mẫu:Sfn. Epstein vốn đang trong quãng thời gian nhạy cảm, bị trầm cảm do những soi mói vào đời sống cá nhân và ban nhạc có vẻ không muốn ký hợp đồng tiếp với ông, vốn sắp đáo hạn vào tháng 10, khi mà họ tỏ rõ việc không hài lòng trong cách quản lý của ông, đặc biệt về Seltaeb – công ty phân phối các sản phẩm lưu niệm của họ tại MỹBản mẫu:Sfn. Cái chết của Epstein khiến ban nhạc mất định hướng và lo sợ về tương lai của mình. Lennon nói: "Chúng tôi bỗng đổ sụp. Tôi biết mọi khó khăn sắp bắt đầu. Tôi chẳng hề có một chút khả năng gì khác ngoài việc chơi nhạc, và tôi đã rất sợ. Tôi liền nghĩ: "Tất cả chúng tôi đều biết như vậy.""Bản mẫu:Sfn
Magical Mystery Tour, Album trắng và Yellow Submarine[sửa]
Bản mẫu:Listen Magical Mystery Tour, bản soundtrack cho bộ phim cùng tên của The Beatles, được phát hành dưới dạng EP-kép tại Anh đầu tháng 12 năm 1967Bản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Tại Mỹ, cả 6 ca khúc trên được gộp lại với 5 đĩa đơn trước đó của nhóm và trở thành bản LP tại đâyBản mẫu:Sfn. Unterberger nói về ấn bản Magical Mystery Tour tại Mỹ "thứ âm thanh psychedelic từ Sgt. Pepper, thậm chí phóng khoáng hơn (đặc biệt trong "I Am the Walrus")" và ông gọi 5 đĩa đơn được cho vào album là "đồ sộ, lộng lẫy và cách tân"Bản mẫu:Sfn. Chỉ trong 3 tuần, nó đã trở thành album bán chạy nhất lịch sử hãng Capitol Records, và nó cũng là album tuyển tập duy nhất của Capitol được ban nhạc sau này chọn làm album phát hành chính thứcBản mẫu:Sfn. Được lên sóng đúng ngày Boxing Day, bộ phim Magical Mystery Tour, được chủ yếu đạo diễn bởi McCartney, khiến ban nhạc nhận được thất bại thực sự đầu tiên tại Mỹ. Tờ Daily Express gọi đây là "thứ rác rưởi ồn ào", còn Daily Mail gọi bộ phim là "sự tự mãn quá đà". The Guardian bình luận "một kiểu đạo đức hoang đường hướng về sự tục tĩu, sự hân hoan và cả sự ngu dốt của khán giả"Bản mẫu:Sfn. Gould miêu tả "một minh chứng của cách dàn dựng non nớt về một nhóm người chỉ biết lên, xuống rồi lái chiếc xe bus"Bản mẫu:Sfn. Cho dù tỉ lệ người xem vẫn ở mức cao, những công kích từ báo chí đã khiến các đài truyền hình của Mỹ sau đó cũng dè dặt hơn trong việc đưa bộ phim lên sóngBản mẫu:Sfn.
Tháng 1 năm 1968, The Beatles quay 1 đoạn phim giới thiệu cho bộ phim hoạt hình Yellow Submarine với ban nhạc được vẽ lại theo lối hoạt họa theo kèm là soundtrack với 11 ca khúc, trong đó 4 là các ca khúc chưa từng được phát hànhBản mẫu:Sfn. Được phát hành vào tháng 6, bộ phim được đánh giá cao về âm nhạc, tính hài hước cũng như phong cách thể hiện kiểu mớiBản mẫu:Sfn. Album soundtrack chỉ được phát hành 7 tháng sau đóBản mẫu:Sfn.
Trong quãng thời gian đó, ban nhạc thực hiện album The Beatles – bản LP sau này được phân biệt dưới tên gọi Album trắng với phần bìa vô cùng đặc trưng của mìnhBản mẫu:Sfn. Ý tưởng thực hiện album lần này là hoàn toàn mới: không còn những định hướng từ Epstein, ban nhạc đã chuyển hướng sang Maharishi Mahesh Yogi như là guru của họBản mẫu:Sfn. Tham dự khu thiền ashram[gc 21] ở Rishikesh, Ấn Độ trong chuyến đi "Guide Course" dự tính kéo dài 3 tháng, ban nhạc đã có quãng thời gian đặc biệt nhất sự nghiệp của mình khi đã viết nên vô số những ca khúc xuất sắc mà trong đó là phần lớn các sáng tác cho Album trắngBản mẫu:Sfn. Tuy nhiên, Starr bỏ về chỉ sau 10 ngày và so sánh chuyến đi với Butlin's[gc 22], trong khi McCartney cũng ngày một cảm thấy chán nản và bỏ cuộc 1 tháng sau đóBản mẫu:Sfn. Với Lennon và Harrison, sức sáng tạo của họ cũng bị đặt dấu hỏi khi những kỹ thuật viên như Magic Alex từng nhớ lại rằng Maharishi thực tế toàn cố gắng làm xao nhãng họBản mẫu:Sfn. Khi họ phát hiện ra rằng Maharishi có những hành vi không lành mạnh với một nữ thành viên trong đoàn, Lennon lập tức chấm dứt chuyến đi, mang theo Harrison cùng toàn bộ số thành viên còn lại trở về AnhBản mẫu:Sfn. Tức giận và cảm thấy bị xúc phạm, Lennon viết nên ca khúc "Maharishi", sau này đổi tên thành "Sexy Sadie" nhằm tránh những kiện tụng không cần thiết. McCartney nói: "Chúng tôi đã phạm sai lầm. Chúng tôi cứ nghĩ rằng có thể có được nhiều hơn từ ông ấy."Bản mẫu:Sfn
Trong quãng thời gian thực hiện Album trắng, tức là khoảng từ cuối tháng 5 tới giữa tháng 10 năm 1968, mối quan hệ giữa các thành viên xấu đi trông thấyBản mẫu:Sfn. Starr bỏ nhóm 2 tuần, buộc McCartney phải chơi trống trong "Back in the U.S.S.R." (và lần lượt cả Harrison và Lennon) rồi "Dear Prudence"Bản mẫu:Sfn. Lennon mất mọi cảm hứng cộng tác với McCartneyBản mẫu:Sfn và gọi ca khúc "Ob-La-Di, Ob-La-Da" là "thứ âm nhạc bỏ đi của các cụ già"Bản mẫu:Sfn. Căng thẳng đặc biệt gia tăng khi những động thái quan tâm lãng mạn của Lennon tới nghệ sĩ avant-garde Yoko Ono đã dẫn tới việc anh mang cô tới phòng thu, trong khi trước đó ban nhạc đã có quy ước không đem theo bạn gái hay vợ trong lúc thu âmBản mẫu:Sfn. Nói về album-kép này, Lennon bình luận: "Mỗi ca khúc đều là sản phẩm cá nhân, chẳng có một chút Beatles nào trong đó hết; [đó là] John cùng ban nhạc, Paul cùng ban nhạc, George cùng ban nhạc."Bản mẫu:Sfn McCartney sau này gọi album "không phải là một thành quả hài lòng"Bản mẫu:Sfn. Cả anh lẫn Lennon sau này đều cho rằng quá trình thu âm Album trắng chính là điểm khởi đầu của việc ban nhạc tan rãBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn.
Được phát hành vào tháng 11, Album trắng là album đầu tiên của The Beatles dưới nhãn đĩa Apple Records, trong khi EMI tiếp tục song song giữ quyền phát hànhBản mẫu:Sfn. Nhãn đĩa riêng của ban nhạc là một công ty con của Apple Corps, vốn được Epstein lập nên nhằm giúp ban nhạc giải quyết những vấn đề về thuếBản mẫu:Sfn. Album có được tới 2 triệu bản đặt hàng trước, rồi sau đó bán được tới 4 triệu đĩa ở Mỹ chỉ sau hơn 1 tháng, và các ca khúc thống trị các bảng xếp hạng tại đâyBản mẫu:Sfn. Cho dù thành công về thương mại, song album không hoàn toàn nhận được những đánh giá chuyên môn tích cực. Gould viết:
- "Những đánh giá chuyên môn... trải rộng từ lẫn lộn tới thờ ơ. Đối lập với Sgt. Pepper vốn từng giúp ban nhạc có được sự ngưỡng mộ rộng khắp, Album trắng không có được những lời phê bình ấn tượng trong bất cứ mặt nào. Kể cả với những cây viết thân thiện nhất... cũng thực sự không hình dung ra những cảm xúc kỳ quái lẫn lộn trong các ca khúc. Hubert Saal của Newsweek, với lời bình mang tính mỉa mai nhất, cho rằng ban nhạc vẫn còn chưa "uốn lưỡi"[gc 23] thật kỹ."Bản mẫu:Sfn
Bản mẫu:Listen Nhìn chung các đánh giá sau này đều tôn vinh Album trắng. Năm 2003, tạp chí Rolling Stone xếp album ở vị trí số 10 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất"Bản mẫu:Sfn. Mark Richardson từ Pitchfork Media miêu tả album "rộng lớn và trải khắp, bùng nổ với những ý tưởng cùng những đam mê và được hoàn thiện bởi những chất liệu ngay ngắn nhất... Sự thất bại của họ cũng đặc sắc như cá tính và vinh quang của họ vậy."Bản mẫu:Sfn Erlewine bình luận: "2 cây viết chủ lực [của ban nhạc] đã không còn chung một con đường, kể cả với George và Ringo", và "Lennon đã viết nên 2 trong số những bản ballad hay nhất của mình", các ca khúc của McCartney là "sửng sốt", còn Harrison "đã trở thành người viết nhạc đáng được tôn trọng", trong khi những sáng tác của Starr là "sự thích thú"Bản mẫu:Sfn.
Bản LP Yellow Submarine được phát hành vào tháng 1 năm 1969, bao gồm 4 ca khúc từng được phát hành trước đó, trong đó có ca khúc tiêu đề (từng xuất hiện trong Revolver), "All You Need Is Love" (từng nằm trong EP Magical Mystery Tour) theo kèm là 7 bản nhạc hòa tấu sáng tác bởi MartinBản mẫu:Sfn. Với thứ âm nhạc mới của ban nhạc, Unterberger và Bruce Eder của Allmusic cho rằng album là một sản phẩm "không chính yếu" song lại ấn tượng với ca khúc "It's All Too Much" của Harrison "viên ngọc trong số những ca khúc mới... rực rỡ với giai điệu của mellotron, định âm tuyệt hảo và những đoạn lướt mềm mại của guitar... một cuộc dạo chơi của người sành sỏi tới thứ âm nhạc psychedelic mờ ảo kiểu mới."Bản mẫu:Sfn
Abbey Road, Let It Be và tan rã[sửa]
Cho dù Let It Be là album chính thức cuối cùng của ban nhạc, song thực tế album cuối cùng mà The Beatles thực hiện thu âm là Abbey Road. Ngọn nguồn của dự án tới từ câu nói của Martin với McCartney khi gợi ý "thu âm một sản phẩm với những chất liệu mới rồi chơi nháp chúng, rồi lần đầu tiên thực hiện chúng trước khi trình diễn trực tiếp – kể cả thu âm lẫn thu hình"Bản mẫu:Sfn. Vốn dự định để dành cho chương trình tài liệu Beatles at Work, hầu hết quãng thời gian thực hiện dự án đều được quay lại bởi Michael Lindsay-Hogg tại phòng thu Twickenham Film Studios từ tháng 1 năm 1969Bản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Martin cho rằng dự án "không hoàn toàn là những buổi thu vui vẻ. Đó cũng là lúc mà mối quan hệ giữa các Beatle đã chạm đáy của nó."Bản mẫu:Sfn Lennon miêu tả quãng thời gian này như "địa ngục... điều khốn khổ nhất... trên Trái đất", còn với Harrison là "thất vọng nhất từng có"Bản mẫu:Sfn. Bị ức chế từ cả McCartney lẫn Lennon, Harrison rời nhóm 5 ngày. Khi quay trở lại, anh tuyên bố sẽ ra đi trừ khi "[ban nhạc] không được nhắc tới buổi trình diễn trực tiếp" và mặt khác nhấn mạnh việc dự án sẽ cho ra đời một album mới mang tên Get Back với các ca khúc sẽ được trình chiếu trên truyền hìnhBản mẫu:Sfn. Anh cũng đề nghị cả nhóm dừng công việc ở Twickenham để tập trung thu âm ở phòng thu của hãng Apple. Các thành viên khác đều đồng ý, và ý tưởng đã góp phần cứu vớt nội dung những cảnh quay sau đó được chiếu trên truyền hìnhBản mẫu:Sfn.
Những nỗ lực giảm bớt căng thẳng giữa các thành viên đã thúc đẩy chất lượng công việc, và Harrison đã mời tay keyboard trẻ Billy Preston tới tham gia trong 9 ngày cuối cùng của đợt thuBản mẫu:Sfn. Preston được đề tên trong đĩa đơn "Get Back" của ban nhạc – đây cũng là nghệ sĩ duy nhất được có tên trong một sản phẩm chính thức của The BeatlesBản mẫu:Sfn. Sau khi kết thúc những buổi thu thử, ban nhạc không thể thống nhất được địa điểm trình diễn sau khi bỏ qua lần lượt từng đề xuất, trong đó có cả du thuyền trên biển, nhà thương điên, sa mạc Tunisia và đấu trường ColosseumBản mẫu:Sfn. Cuối cùng họ cũng đồng ý trình diễn buổi diễn cuối cùng của ban nhạc trên tầng mái của Apple Corps ở địa chỉ số 3 phố Savile Row, London ngày 30 tháng 1 năm 1969Bản mẫu:Sfn. 5 tuần sau, kỹ thuật viên Glyn Johns – người từng được Lennon gọi là "nhà sản xuất giấu mặt" của dự án Get Back – bắt đầu tổng hợp và hoàn thiện album mà như ông gọi là "chiếc dây cương tự do" cho phép ban nhạc "làm tất cả song không được nhúng tay vào toàn bộ dự án"Bản mẫu:Sfn.
Những trục trặc giữa các thành viên tiếp tục gia tăng khi liên quan tới vấn đề tìm kiếm cố vấn tài chính, một công việc tối quan trọng sau khi Epstein không còn quản lý nhóm nữa. Lennon, Harrison và Starr đồng ý chọn Allen Klein – quản lý của The Rolling Stones và Sam Cooke – trong khi McCartney lại muốn John Eastman, anh trai của Linda Eastman – người mà anh mới kết hôn ngày 12 tháng 3 cùng năm. Không thể đạt được đồng thuận vậy nên cả 2 nhân vật trên đều được bổ nhiệm, song những tranh cãi sau đó xuất hiện và rất nhiều cơ hội đầu tư đã bị bỏ lỡBản mẫu:Sfn. Tới ngày 8 tháng 5, Klein được chỉ định vào vị trí phụ trách doanh thu của ban nhạcBản mẫu:Sfn.
Martin nhớ lại việc ông cảm thấy sốc khi McCartney đề nghị sản xuất 1 album mới, cho dù dự án Get Back là "trải nghiệm tồi tệ" và bản thân anh cho rằng "chúng tôi đã đi tới đoạn cuối của con đường". Những buổi thu đầu tiên của Abbey Road được thực hiện vào ngày 2 tháng 7 năm 1969Bản mẫu:Sfn. Lennon, người từ chối ý tưởng của Martin "tiếp tục chuỗi những ca khúc", đã yêu cầu các sáng tác của mình và McCartney phải được nằm ở mỗi mặt khác nhau của albumBản mẫu:Sfn. Cuối cùng hình thức được họ lựa chọn là các sáng tác cá nhân ở mặt A, còn mặt B chủ yếu là medley theo gợi ý của McCartneyBản mẫu:Sfn. Ngày 4 tháng 7, đĩa đơn solo đầu tiên của một Beatle được phát hành mang tên "Give Peace a Chance" (dưới tên Plastic Ono Band). Ngày 20 tháng 8 năm 1969, ca khúc với cấu trúc phức tạp "I Want You (She's So Heavy)" chính là lần cuối cùng cả 4 thành viên của The Beatles ngồi cùng nhau thu âm trong phòng thuBản mẫu:Sfn. Lennon tuyên bố rời khỏi ban nhạc vào ngày 20 tháng 9 song đồng ý giữ yên lặng trước công chúng nhằm đảm bảo doanh thu cho album sắp ra mắtBản mẫu:Sfn.
Bản mẫu:Listen Được phát hành 4 ngày sau tuyên bố của Lennon, Abbey Road bán được 4 triệu bản tại Anh chỉ trong vòng 3 tháng và đứng đầu bảng xếp hạng tại đây trong vòng 17 tuầnBản mẫu:Sfn. Ca khúc thứ hai của album, bản ballad "Something", trở thành sáng tác duy nhất của Harrison được làm đĩa đơn mặt A cho The BeatlesBản mẫu:Sfn. Abbey Road nhận được nhiều đánh giá trái chiều, cho dù medley hầu hết nhận được những lời ngưỡng mộBản mẫu:Sfn. Unterberger gọi đây là "tuyệt tác thiên tài của ban nhạc" bao gồm "những hòa âm tuyệt vời nhất từng có của nhạc rock"Bản mẫu:Sfn. Nhà nghiên cứu âm nhạc Ian MacDonald gọi album là "thất thường và đôi lúc rỗng tuếch", cho dù đánh giá cao medley "nhìn chung là thống nhất và hài hòa"Bản mẫu:Sfn. Martin coi đây là album mà ông yêu thích nhất của nhóm, trong khi Lennon cho rằng album "có tiềm năng" song "không có sức sống trong nó". Kỹ thuật viên âm thanh Emerick nhớ lại việc thay thế bộ điều khiển trộn âm nút bấm bằng hệ thống cần gạt đã giúp họ tạo nên ít âm thanh gằn hơn, mặt khác khiến ban nhạc tập trung hơn vào những âm sắc thanh gọn và không bị pha tạp, cũng như góp phần làm nên thứ cảm xúc tương đối "dễ chịu hơn, gần gũi hơn" so với những album trước đóBản mẫu:Sfn.
Ca khúc "I Me Mine" của Harrison được thu vào ngày 3 tháng 1 năm 1970 để dành cho album chưa hoàn thiện Get Back. Lennon, khi đó đang ở Đan Mạch, không tham gia vào buổi thuBản mẫu:Sfn. Tới tháng 3, không hài lòng với kết quả dự án được thực hiện bởi Johns, giờ đã được đổi tên thành Let It Be, Klein liền chuyển tất cả các bản thu gốc cho Phil Spector – người vốn đang cộng tác cùng Lennon cho đĩa đơn solo "Instant Karma!"Bản mẫu:Sfn. Bổ sung nhiều chất liệu mới, Spector đã chỉnh sửa, cắt gọt, ghi đè nhằm cố gắng biến các ca khúc có cảm giác như thu âm trực tiếp. McCartney không hài lòng với phương pháp này của Spector và đặc biệt bực tức trong việc thay đổi hòa âm ca khúc "The Long and Winding Road" khi cho thêm dàn hợp ca 14 người và phần bè mới với 36 nhạc cụBản mẫu:Sfn. Yêu cầu của McCartney về việc hủy bỏ ấn bản này bị bỏ quaBản mẫu:Sfn, và gần như ngay lập tức anh tuyên bố chia tay ban nhạc trong buổi họp báo ngày 10 tháng 4 năm 1970 – chỉ đúng 1 tuần sau khi cho ra mắt album solo đầu tayBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn.
Ngày 8 tháng 5 năm 1970, album Let It Be do Spector sản xuất được bày bán. "The Long and Winding Road" trở thành đĩa đơn cuối cùng của The Beatles, song nó chỉ được phát hành tại MỹBản mẫu:Sfn. Bộ phim tài liệu cùng tên được phát hành không lâu sau, rồi được trao giải Oscar năm 1970 cho Nhạc phim xuất sắc nhấtBản mẫu:Sfn. Nhà báo Penelope Gilliatt của tờ Sunday Telegraph nhận xét "một bộ phim tồi song rất xúc động... về sự tan vỡ của một gia đình của những người anh em thân thiết, gần gũi về địa lý và có vẻ ngoài không tuổi"Bản mẫu:Sfn. Nhiều đánh giá cho rằng vài phần trình bày trong bộ phim có chất lượng tốt hơn cả ấn bản trong album chính thứcBản mẫu:Sfn. Gọi Let It Be là "album duy nhất của The Beatles có nhiều phản ứng tiêu cực, thậm chí bài bác", Unterberger nói album "bị đánh giá quá thấp"; ông cũng ấn tượng "những khoảnh khắc hard rock tới từ "I've Got a Feeling" và "Dig a Pony"" và hài lòng với những ca khúc như "Let It Be", "Get Back", và "giai điệu folk của "Two of Us" khi John và Paul vẫn cùng nhau hòa âm"Bản mẫu:Sfn. McCartney hoàn tất những thủ tục về việc giải tán ban nhạc vào ngày 31 tháng 12 năm 1970Bản mẫu:Sfn. Những tranh chấp pháp lý còn kéo dài sau khi ban nhạc tan rã và chúng chỉ chính thức chấm dứt vào ngày 29 tháng 12 năm 1974Bản mẫu:Sfn.
1970-nay: Thời kỳ hậu-tan rã[sửa]
Thập niên 1970[sửa]
Lennon, McCartney, Harrison và Starr đều cho phát hành những album solo vào năm 1970. Các album solo của họ vẫn có sự tham gia của một hoặc vài thành viên khácBản mẫu:Sfn. Album Ringo (1973) của Starr là sản phẩm duy nhất có sự đóng góp của cả 4 cựu-Beatle, cho dù mỗi người chỉ thu âm một cách độc lậpBản mẫu:Sfn. Harrison cũng tổ chức chương trình hòa nhạc từ thiện Concert for Bangladesh vào tháng 8 năm 1971 ở New York với sự góp mặt của Starr. Ngoài một buổi thu ngẫu hứng sau này được cho vào bootleg mang tên A Toot and a Snore in '74, Lennon và McCartney không bao giờ cộng tác với nhau nữaBản mẫu:Sfn.
2 album-kép tuyển tập thực hiện bởi Klein, 1962–1966 và 1967–1970, được phát hành vào năm 1973 dưới tên hãng Apple RecordsBản mẫu:Sfn. Thường được gọi bằng tên Album đỏ và Album xanh, cả 2 đều có được chứng chỉ đa-Bạch kim tại Mỹ và Bạch kim tại AnhBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Trong những năm 1976 tới 1982, EMI và Capitol Records cho ra mắt liên tiếp nhiều album tuyển tập của The Beatles, bắt đầu với album-kép Rock 'n' Roll MusicBản mẫu:Sfn. Sản phẩm duy nhất chưa từng được phát hành là The Beatles at the Hollywood Bowl (1977) – album thu âm trực tiếp chính thức đầu tiên của ban nhạc bao gồm những ca khúc chọn lọc từ 2 buổi diễn của họ tại Mỹ vào năm 1964 và 1965Bản mẫu:Sfn[gc 24].
Âm nhạc và ảnh hưởng của The Beatles tiếp tục được khai thác dưới nhiều hình thức khác nhau, và thường ngoài khả năng kiểm soát của họ. Tháng 4 năm 1974, vở nhạc kịch John, Paul, George, Ringo … and Bert, được viết bởi Willy Russell và xướng ca bởi Barbara Dickson, công chiếu ở London. Vở nhạc kịch, với sự đồng ý từ Northern Songs, bao gồm 11 sáng tác của Lennon-McCartney và ca khúc "Here Comes the Sun" của Harrison. Không hài lòng về cách dàn dựng, Harrison rút lại giấy phép sử dụng ca khúc nàyBản mẫu:Sfn. All This and World War II (1976) là một bộ phim trái lề bao gồm nhiều cảnh quay cùng các phần bìa album của The Beatles được trình bày bởi Elton John và Keith Moon cùng Dàn nhạc giao hưởng LondonBản mẫu:Sfn. Vở nhạc kịch Broadway mang tên Beatlemania với nội dung chưa được cấp phép ra mắt vào năm 1977 và trở nên nổi tiếng, giúp họ có nhiều tour diễn khắp nơiBản mẫu:Sfn. Năm 1979, ban nhạc khởi kiện nhà sản xuất và được bồi thường hàng triệu $Bản mẫu:Sfn. Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band (1978) – bộ phim được thực hiện với The Bee Gees và Peter Frampton thủ vai chính – thất bại hoàn toàn về mặt thương mại và được Ingham gọi là "thảm họa nghệ thuật"Bản mẫu:Sfn.
Thập niên 1980[sửa]
Sau khi Lennon bị ám sát vào tháng 12 năm 1980, Harrison đã viết lại phần lời ca khúc "All Those Years Ago" để tưởng nhớ tới LennonBản mẫu:Sfn. Đĩa đơn được ra mắt vào tháng 5 năm 1981 với Starr chơi trống, McCartney hát chính và vợ anh, Linda, hát bè. Ca khúc tri ân của riêng McCartney, "Here Today", được đưa vào album Tug of War vào tháng 4 năm 1982Bản mẫu:Sfn. Năm 1987, Harrison sáng tác "When We Was Fab" viết về thời kỳ Beatlemania và cho vào album Cloud Nine của mìnhBản mẫu:Sfn.
Khi những album phòng thu của The Beatles được phát hành dưới dạng CD bởi EMI và Apple Corps vào năm 1987, lưu trữ chính thức của chúng được đồng bộ hóa trên toàn thế giới với 12 LP từng được phát hành tại Anh cộng thêm bản LP tại Mỹ của Magical Mystery Tour (1967)Bản mẫu:Sfn. Mọi EP khác không được trở thành album phòng thu của nhóm và các ca khúc được đưa vào album tuyển tập Past Masters (1988). Ngoài 2 Album đỏ và Album xanh, EMI cũng hủy toàn bộ những album tuyển tập khác của The Beatles, trong đó có cả Hollywood Bowl, khỏi lưu trữ của họBản mẫu:Sfn.
Năm 1988, The Beatles được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll ngay trong năm đầu tiên mà họ đủ điều kiện để được đề cử. Harrison và Starr thay mặt ban nhạc tới nhận giải thưởng cùng gia đình Lennon bao gồm người vợ góa Yoko Ono và 2 con trai, Julian và SeanBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. McCartney không có mặt với lý do "quan điểm khác biệt" khiến anh "cảm thấy hoàn toàn đạo đức giả khi phải vẫy tay và mỉm cười trước một đám đông giả tạo"Bản mẫu:Sfn. Ngay năm sau, EMI/Capitol bắt đầu vướng vào vụ kiện bởi chính ban nhạc kéo dài cả thập kỷ về vấn đề bản quyền nhằm giải quyết những tranh chấp nhằm bày bán những sản phẩm chưa từng được phát hành của The BeatlesBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn.
Thập niên 1990[sửa]
17 năm sau Hollywood Bowl, Live at the BBC, album trình diễn trực tiếp chính thức tiếp theo của The Beatles được phát hành vào năm 1994Bản mẫu:Sfn. Cùng năm, McCartney, Ringo và Harrison cũng bắt tay vào dự án Anthology. Anthology vốn được manh nha từ năm 1970 khi giám đốc của Apple Corps – Neil Aspinall, người từng là trợ lý và quản lý hành trình của ban nhạc – bắt đầu việc tổng hợp những tài liệu về họ dưới tên dự án The Long and Winding RoadBản mẫu:Sfn. Tập trung khai thác những câu chuyện của The Beatles qua lời kể từ từng thành viên, Anthology theo kèm nhiều sản phẩm chưa từng được phát hành. McCartney, Harrison và Starr cũng bổ sung phần chơi bè và hát cho 2 ca khúc dưới dạng demo mà Lennon từng thu vào cuối những năm 1970 và đầu 1980Bản mẫu:Sfn.
Trong những năm 1995-1996, dự án được trình chiếu trên truyền hình trong 8 tập phim, theo kèm là 2 CD-box set được thiết kế bởi Voormann. Cả 2 ca khúc được thực hiện từ bản demo của Lennon, "Free as a Bird" và "Real Love", đều trở thành những đĩa đơn cuối cùng đứng tên The Beatles. Dự án thành công vang dội về mặt thương mại và serie phim truyền hình thu hút được tổng cộng khoảng 400 triệu người xemBản mẫu:Sfn. "Free as a Bird" được trao Giải Grammy cho Trình diễn song ca hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất vào năm 1997. Năm 1999, nhân dịp tái bản bộ phim Yellow Submarine, bản CD soundtrack tổng hợp Yellow Submarine Songtrack cũng được phát hànhBản mẫu:Sfn.
Thập niên 2000[sửa]
Album tuyển tập 1 bao gồm những ca khúc quán quân tại Anh và Mỹ của The Beatles được phát hành vào ngày 13 tháng 11 năm 2000. 1 đạt kỷ lục album bán chạy trong thời gian ngắn nhất mọi thời đại với 3,6 triệu đĩa chỉ trong 1 tuầnBản mẫu:Sfn và 13 triệu đĩa trong tháng đầu tiênBản mẫu:Sfn. Album đạt vị trí quán quân tại ít nhất 26 quốc gia, trong đó có cả ở Anh và MỹBản mẫu:Sfn. Tính tới tháng 4 năm 2009, album bán được tổng cộng 31 triệu bản, trở thành album bán chạy nhất thập kỷ tại MỹBản mẫu:Sfn.
Harrison qua đời vì bị ung thư phổi di căn vào tháng 11 năm 2001Bản mẫu:SfnBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. McCartney và Starr là 2 trong số nhiều nghệ sĩ tham gia vào Concert for George, buổi diễn từ thiện tưởng nhớ tới Harrison được tổ chức bởi gia đình anh cùng Clapton. Sự kiện được tổ chức tại Royal Albert Hall nhân dịp kỷ niệm đúng 1 năm ngày mất của Harrison. Ngoài những ca khúc do anh sáng tác, chương trình còn có sự tham gia trình diễn của dàn nhạc cổ điển Ấn Độ, trình bày và dàn dựng bởi gia đình Ravi Shankar, vốn có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời HarrisonBản mẫu:Sfn.
Let It Be... Naked, một ấn bản khác của album Let It Be do McCartney biên tập, được phát hành vào năm 2003. Một trong những điểm khác biệt lớn nhất với ấn bản của Spector đó là việc không còn tồn tại phần bè bởi dàn dây. Album dễ dàng đạt vị trí quán quân tại Anh và MỹBản mẫu:Sfn. Những album của The Beatles từng được phát hành trong giai đoạn 1964-1965 tại Mỹ được tuyển tập lại trong box set The Capitol Albums, Volume 1 (2004) và Volume 2 (2006) bao gồm cả 2 định dạng stereo và mono được chỉnh sửa theo những ấn bản đĩa than dự tính được bày bán tại Mỹ vào thời điểm đóBản mẫu:Sfn.
Buổi trình diễn về The Beatles bởi Cirque du Soleil tại Las Vegas được George Martin và con trai Giles hoàn thiện thành album soundtrack mang tên Love với sự tham gia của hơn 130 nghệ sĩ mà Martin gọi là "cách để làm sống lại sự nghiệp âm nhạc của The Beatles trong một khoảng thời gian vô cùng cô đọng"Bản mẫu:Sfn. Buổi diễn được thực hiện lần đầu vào tháng 6 năm 2006, và album được phát hành vào tháng 11 cùng năm khi McCartney còn thương lượng để cho ra mắt ca khúc "Carnival of Light" – bản thu thử nghiệm dài 14 phút của ban nhạc tại phòng thu Abbey Road vào năm 1967Bản mẫu:Sfn. Một phần trình diễn hiếm có của 2 cựu-Beatle diễn ra vào tháng 4 năm 2009 tại Royal Albert Hall trong khuôn khổ một hoạt động từ thiện của McCartney. Tại đây, Starr đã tới song ca 3 ca khúcBản mẫu:Sfn.
Năm 2009, toàn bộ lưu trữ của The Beatles được phân phối dưới dạng kỹ thuật số sau quá trình biên tập và chỉnh âm kéo dài tận 4 nămBản mẫu:Sfn. Cả 12 album chính thức tại Anh dưới định dạng stereo cùng Magical Mystery Tour và album tuyển tập Past Masters được phát hành đồng thời theo ấn bản CD và box set. So sánh với ấn bản CD năm 1987 vốn bị chê bai vì không rõ nét và sinh động, cây viết Danny Eccleston của tờ Mojo nhận xét: "Phần hát trở nên trong trẻo hơn, nhiều âm thanh tự nhiên hơn và tạo cảm giác nhiều đầu tư trong kỹ thuật trộn âm hơn."Bản mẫu:Sfn Tuyển tập tiếp theo The Beatles in Mono ra mắt bao gồm định dạng mono của từng album của ban nhạc cùng với bản stereo gốc năm 1965 của Help! và Rubber Soul (Martin sau này có chỉnh sửa vào năm 1987)Bản mẫu:Sfn. The Beatles: Rock Band, một phần trong serie trò chơi điện tử Rock Band, cũng được ra mắt cùng ngàyBản mẫu:Sfn. Tháng 12 năm 2009, lưu trữ của ban nhạc được phát hành dưới định dạng FLAC và MP3 song giới hạn với 30.000 USBBản mẫu:Sfn.
Thập niên 2010[sửa]
Vì những bất đồng về bản quyền kéo dài, The Beatles là một trong số những nghệ sĩ tên tuổi cuối cùng ký kết phân phối nhạc trực tuyếnBản mẫu:Sfn. Những tranh chấp bắt nguồn từ vụ kiện của Apple Corps với Apple Inc. – chủ sở hữu của iTunes – về việc sử dụng thương hiệu "Apple". Tới năm 2008, McCartney tuyên bố rằng trở ngại lớn nhất khiến lưu trữ của ban nhạc không thể có được định dạng kỹ thuật số là do EMI "còn muốn một thứ gì đó nữa từ chúng tôi"Bản mẫu:Sfn. Năm 2010, toàn bộ 13 album phòng thu chính thức của The Beatles, cùng các album tuyển tập Past Masters, Album đỏ và Album xanh cuối cùng cũng được xuất hiện trên hệ thống phân phối của iTunesBản mẫu:Sfn.
Năm 2012, tập đoàn Universal Music Group của Mỹ mua lại hãng đĩa EMI. Theo những điều luật ràng buộc, Liên minh châu Âu, vì những lý do chống độc quyền, đã buộc EMI phải giữ lại những lưu trữ quý giá, trong đó có Parlophone. EMI được phép giữ lại toàn bộ lưu trữ của The Beatles dưới tên hãng đĩa mới Capitol Records – một chi nhánh mới tại Anh của UniversalBản mẫu:Sfn. Cũng trong năm 2012, EMI cũng cho tái bản toàn bộ các album của ban nhạc dưới dạng đĩa than cũng như từng album dưới dạng box setBản mẫu:Sfn.
Tới tháng 12 năm 2013, 59 bản thu khác của The Beatles được phát hành trên iTunes. Ấn phẩm mang tên The Beatles Bootleg Recordings 1963 được phép chia sẻ bản quyền tới tận 70 năm tiếp theo với điều kiện các ca khúc đều được giới thiệu ít nhất 1 lần cho tới cuối năm 2013. Apple Records cho phát hành sản phẩm này vào ngày 17 tháng 12 nhằm tránh việc bị phát tán miễn phí rồi bị gỡ trong cùng ngày trên iTunes. Người hâm mộ phản ứng khá trái chiều, và một blogger bình luận "một sản phẩm tuyệt hảo của The Beatles nhằm cố gắng giành lấy tất cả những gì mà vốn họ đã có hết rồi."[8][9]
Ngày 26 tháng 1 năm 2014, McCartney và Starr cùng nhau trình diễn ca khúc "Queenie Eye" tại Giải Grammy lần thứ 56[10]. Ngày hôm sau, chương trình truyền hình đặc biệt The Night That Changed America: A Grammy Salute to The Beatles được thực hiện tại nhà hát Ed Sullivan Theater nơi ban nhạc có lần xuất hiện đầu tiên trên truyền hình Mỹ vào năm 1964[11]. Chương trình được lên sóng đúng ngày kỷ niệm 9 tháng 2 trên cùng kênh truyền hình giống 50 năm trước. Chương trình có phần hát lại các ca khúc của The Beatles bởi các nghệ sĩ đương thời, ngoài ra McCartney và Starr còn tham gia trò chuyện với David Letterman[12][13].
Quan điểm âm nhạc[sửa]
- Xem chi tiết: Lennon-McCartney
Trong cuốn Icons of Rock: An Encyclopedia of the Legends Who Changed Music Forever, Scott Schinder và Andy Schwartz viết về sự phát triển âm nhạc của The Beatles:
- "Từ hình ảnh thuở ban đầu hồn nhiên của những chàng trai bù xù dí dỏm, The Beatles đã phát triển âm thanh, phong cách và cả thái độ trên sân khấu cũng như mở tung cánh cửa rock 'n' roll cho nhạc rock nước Anh. Những thành công ban đầu đã quá đủ để biến họ trở thành một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của thời đại, song họ không muốn dừng lại ở đó. Cho dù phong cách ban đầu của họ là vô cùng cơ bản, dung hòa được nhạc rock 'n' roll Mỹ nguyên thủy với nhạc R&B, song The Beatles đã dành hầu hết quãng thời gian còn lại của thập kỷ 1960 để phá vỡ mọi giới hạn của nhạc rock, đem tới những phong cách mới trong mỗi album. Những thử nghiệm ngày một phức tạp của ban nhạc đã được tạo nên từ vô số thể loại khác nhau, từ folk rock, nhạc đồng quê, psychedelic rock cho tới baroque pop mà không có chút liên hệ mật thiết nào với thời kỳ đầu của họ."Bản mẫu:Sfn
Trong cuốn The Beatles as Musicians, Walter Everett viết về sự cạnh tranh và đối lập giữa Lennon và McCartney trong những sáng tác của ban nhạc: "Có thể nói McCartney đã trưởng thành không ngừng – theo ý nghĩa giải trí – trong hình ảnh người nhạc sĩ tài năng với đôi tai đối âm hoàn hảo cùng nhiều khía cạnh khác của những ngón nghề từng được tất cả mọi người thừa nhận – thứ ngôn ngữ chung mà anh vô cùng chú trọng. Trái lại, âm nhạc của Lennon được đánh giá cao trong việc táo bạo sản xuất những tiềm thức lớn lao, tìm kiếm những xúc cảm nghệ thuật rất hệ thống."Bản mẫu:Sfn
Ian MacDonald miêu tả McCartney là "một người viết nhạc bẩm sinh – người tạo ra những âm thanh sống động cùng những hòa âm của chúng". Những giai điệu của McCartney thường đặc trưng bởi sự nổi bật của "trục dọc" cùng với đó là những quãng rộng, du dương nhằm diễn đạt "năng lượng và sự lạc quan ngoại hướng". Trong khi đó, "bản lĩnh vững vàng và đầy châm biếm" của Lennon là hình ảnh của "trục ngang" với những quãng nhỏ và nghịch tai cùng với đó là những giai điệu lặp theo kèm với thứ nhạc đệm mà anh luôn chú trọng: "Vốn là một người thực tế, anh ấy luôn giữ giai điệu của mình theo sát với nhịp điệu và phách, bổ sung vào ca từ những yếu tố blues hơn là sáng tạo ra những nốt có thể khiến người khác sửng sốt."Bản mẫu:Sfn MacDonald cũng đánh giá cao vai trò lead guitar của Harrison với "những nốt đặc trưng cùng chất liệu đầy màu sắc" bên cạnh những đóng góp của Lennon và McCartney, đồng thời gọi Starr là "hình mẫu của mọi tay trống pop/rock hiện đại"Bản mẫu:Sfn.
Ảnh hưởng[sửa]
Bản mẫu:Listen Những người sớm có ảnh hưởng tới ban nhạc bao gồm Elvis Presley, Carl Perkins, Little Richard và Chuck BerryBản mẫu:Sfn. Trong thời gian The Beatles ở cùng Little Richard tại câu lạc bộ Star-Club ở Hamburg từ tháng 4 tới tháng 5 năm 1962, họ đã được chỉ dẫn nhiều kỹ năng về nghệ thuật trình diễn. Về Presley, Lennon nói: "Chưa có gì thu hút tôi cho tới khi tôi được nghe Elvis. Nếu không có Elvis, hẳn sẽ không bao giờ có The Beatles."Bản mẫu:Sfn
Những nghệ sĩ lớn khác có ảnh hưởng tới ban nhạc còn có thể kể tới Buddy Holly, Eddie Cochran, Roy OrbisonBản mẫu:Sfn và The Everly BrothersBản mẫu:Sfn. The Beatles tiếp tục thu nhận những ảnh hướng khác ngay từ những thành công đầu tiên của họ, cùng với đó là thường xuyên tham khảo nhiều hình mẫu về ca từ và âm nhạc từ các nghệ sĩ đương thời, bao gồm Bob Dylan, Frank Zappa, The Lovin' Spoonful, The Byrds và The Beach Boys, đặc biệt album Pet Sounds (1966) đã làm choáng ngợp và tạo cảm hứng lớn lao cho McCartneyBản mẫu:SfnBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Martin nhấn mạnh: "Nếu không có Pet Sounds thì sẽ không bao giờ có Sgt. Pepper... Pepper sinh ra là để đáp lại Pet Sounds."Bản mẫu:Sfn Ravi Shankar từng trải qua 6 tuần cùng Harrison tại Ấn Độ vào cuối năm 1966, và kể từ đó tạo nên những ảnh hưởng rõ ràng lên tư duy và sự phát triển âm nhạc của The BeatlesBản mẫu:Sfn.
Phong cách[sửa]
Xuất phát điểm là một nhóm nhạc skiffle, The Beatles dễ dàng thu nhận những tinh hoa của nhạc rock 'n' roll thập niên 1950 và Merseybeat (sau này trở thành phong cách chủ đạo của nhóm)[14], rồi sau đó họ mở rộng khả năng trình diễn của mình ra nhiều phong cách đa dạng khác nhauBản mẫu:Sfn. Lennon nói về việc này trong buổi ra mắt album Beatles For Sale: "Bạn có thể nói album mới của chúng tôi là một bản LP đồng-quê-phương-Tây"Bản mẫu:Sfn, trong khi Gould gọi Rubber Soul là "thứ phương tiện đã giúp những gã cuồng nhạc folk có thể tiếp cận được với nhạc pop"Bản mẫu:Sfn.
Cho dù "Yesterday" không phải là ca khúc pop đầu tiên sử dụng dàn nhạc dây, song nó lại đánh dấu việc lần đầu tiên ban nhạc sử dụng những nhạc cụ cổ điển trong sáng tác của mình. Gould nhận xét: "Thứ âm thanh truyền thống hơn của dàn dây đã cho phép người nghe đánh giá một cách hoàn toàn mới trong tư cách người viết nhạc vốn đã dị ứng lâu ngày bởi tiếng trống đều đều và tiếng guitar điện."Bản mẫu:Sfn Họ tiếp tục những thử nghiệm với dàn dây qua nhiều hiệu ứng khác: ca khúc "She's Leaving Home" đã "tổng hợp được phong cách ballad tình cảm từ thời Victoria", Gould viết, "âm nhạc và ca từ chính là khuôn mẫu của melodrama"Bản mẫu:Sfn.
Việc mở rộng phong cách của họ tiếp tục đi theo con đường mới với đĩa đơn mặt B "Rain" (1966) mà Martin Strong miêu tả "ca khúc psychedelic rõ ràng đầu tiên của The Beatles"Bản mẫu:Sfn. Rất nhiều ca khúc của thể loại này đã được thực hiện sau đó, bao gồm "Tomorrow Never Knows", "Strawberry Fields Forever", "Lucy in the Sky with Diamonds" và "I Am the Walrus". Ảnh hưởng của âm nhạc Ấn Độ đã được thể hiện rõ ràng trong các sáng tác của Harrison bao gồm "The Inner Light", "Love You To" và "Within You Without You" mà 2 ca khúc sau được Gould gọi là "minh họa của raga trong một sản phẩm thu nhỏ"Bản mẫu:Sfn.
Cải tiến chính là một trong những nét đặc trưng nhất trong quá trình phát triển của ban nhạc. Nhà nghiên cứu âm nhạc Michael Campbell bình luận: ""A Day in the Life" đã đúc kết nghệ thuật và những thành tựu của The Beatles trong một đĩa đơn. Điểm sáng nằm trong âm nhạc tuyệt hảo của họ: những âm thành giàu hình tượng, sự du dương của giai điệu ngọt ngào và sự phối hợp chặt chẽ giữa âm nhạc và ca từ. Ca khúc đã trở thành một biểu tượng mới – phức tạp hơn nhạc pop thông thường... và hoàn toàn tân tiến. Chưa bao giờ tồn tại một sản phẩm như vậy – vừa đặc trưng vừa kết hợp âm nhạc cổ điển – mà họ đã tổng hợp lại từ rất nhiều yếu tố đa dạng."Bản mẫu:Sfn Nhà nghiên cứu triết học Bruce Ellis Benson cũng đồng ý: "The Beatles... đã đem tới cho chúng ta ví dụ về những hình tượng có ảnh hưởng nhất như âm nhạc Celtic, R&B, âm nhạc đồng quê và cả âm nhạc phương Đông đều có thể dung hòa với nhau và tự trở thành một con đường hoàn toàn mới."Bản mẫu:Sfn
Cây bút Dominic Pedler viết về cách The Beatles đi xa hơn những thể loại âm nhạc thông thường: "Hơn cả việc đi từ thể loại này sang thể loại khác (mà đôi lúc bị nhầm lẫn), ban nhạc vẫn giữ nguyên trong mình sự bí ẩn âm nhạc đặc trưng, tạo nên những bản hit cùng lúc với việc nâng cấp nhạc rock và lục tìm những giới hạn rộng lớn kể cả từ những yếu tố ngoại vi như nhạc đồng quê và vaudeville. Một trong những bước tiến của họ là vẫn sử dụng folk rock như phần nền cho âm nhạc của mình bên cạnh âm nhạc Ấn Độ và cả triết học."Bản mẫu:Sfn Khi mối bất đồng giữa các thành viên ngày một gia tăng, sự khác biệt cá nhân lại ngày một rõ rệt. Phần bìa thiết kế tối giản của Album trắng hoàn toàn đối lập với sự phức tạp và đa dạng của phần nội dung âm nhạc, điển hình là ca khúc "Revolution 9" của Lennon được viết theo phong cách musique concrète ảnh hưởng từ Yoko Ono, "Don't Pass Me By" của Starr được viết theo phong cách đồng quê, "While My Guitar Gently Weeps" của Harrison mang phong cách rock ballad còn "Helter Skelter" của McCartney được coi là tiền thân của heavy metalBản mẫu:Sfn.
Vai trò của George Martin[sửa]
Bản mẫu:Listen Ảnh hưởng của George Martin trong vai trò nhà sản xuất đã đưa ông trở thành một trong những nhân vật xứng đáng nhất với tên gọi "Beatle thứ năm"Bản mẫu:Sfn. Ông đã đem tới niềm đam mê âm nhạc cổ điển qua nhiều hình thức khác nhau, biến mình trở thành "một thầy giáo dạy nhạc" qua việc tham gia vào công việc viết nhạcBản mẫu:Sfn. Chính Martin là người đã gợi ý với McCartney việc sử dụng dàn tứ tấu dây làm phần bè cho ca khúc "Yesterday", từ đó giới thiệu với The Beatles "thế giới bất ngờ và rộng lớn của những nhạc cụ cổ điển đầy màu sắc"Bản mẫu:Sfn. Sức sáng tạo của ban nhạc cũng nhận được sự ủng hộ lớn từ Martin khi ông dám đề nghị thử nghiệm với mọi ý kiến của họ, điển hình là việc cho thêm "chút baroque" vào nhiều ca khúcBản mẫu:Sfn. Ngoài việc hòa âm và chỉ huy dàn nhạc, Martin đôi lúc còn tham gia thu âm cùng ban nhạc khi chơi piano, organ và cả kèn hơiBản mẫu:Sfn.
Làm việc với Lennon và McCartney đòi hỏi Martin phải thích ứng được những quan điểm âm nhạc khác nhau của họ trong sáng tác cũng như thu âm. MacDonald bình luận: "Trong khi [ông ấy] làm việc tự nhiên hơn với một McCartney mềm mỏng thì thách thức trong việc đáp ứng những trực giác nhạy bén của Lennon lại giúp ông dồn nhiều tâm trí cho phần hòa âm mà trong đó ca khúc "Being for the Benefit of Mr. Kite!" là một ví dụ điển hình."Bản mẫu:Sfn Martin cũng nói về phong cách viết nhạc khác nhau của bộ đôi và ảnh hưởng lớn từ cá nhân ông:
- "So với những ca khúc của Paul vốn được viết ít nhiều liên quan tới thực tế, các ca khúc của John mang tính phiêu diêu và nhiều yếu tố bí ẩn hơn... Khả năng tưởng tượng chính là điểm nổi bật trong các sáng tác của John – "những cây quýt", "bầu trời màu mứt cam", "những bông hoa bằng giấy bóng kính",[gc 25]... Tôi cứ nghĩ rằng cậu ấy là Salvador Dalí trong hình hài một nhạc sĩ phong lưu - nghiện thuốc. Mặt khác, tôi không thể nói rằng các chất kích thích không có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của các Beatle... họ biết rằng tôi – một người được học hành đầy đủ – sẽ không bao giờ đồng tình... Không những tôi không thử dùng những thứ đó, tự tôi thấy mình không cần tới chúng. Và tôi cũng không ngần ngại nói rằng nếu như tôi từng sử dụng ma túy thì Pepper sẽ không bao giờ được như vậy. Có lẽ sự cộng hưởng giữa những tay nghiện thuốc và những người không dùng chúng chính là chìa khóa của thành công, liệu có ai dám chắc?"Bản mẫu:Sfn
Harrison cũng tôn vinh vai trò trong phòng thu của Martin: "Tôi nghĩ chúng tôi đã cùng nhau trưởng thành suốt quãng thời gian đó, ông ấy là một người đường hoàng còn chúng tôi thì như lũ điên. Nhưng ông ấy lại luôn ở bên để giúp chúng tôi hiểu hơn về sự điên rồ của mình – chúng tôi vẫn thường thử nghiệm avant-garde vài ngày mỗi tuần, và ông ấy có mặt như người đáng tin cậy nhất để diễn đạt trực tiếp tới kỹ thuật viên và với băng thâu."Bản mẫu:Sfn
Phòng thu[sửa]
Nhận thức rằng cải tiến kỹ thuật phòng thu cũng là giúp mở rộng chất lượng thu âm, The Beatles đã tận dụng triệt để kinh nghiệm từ George Martin và đội ngũ kỹ thuật viên của ông. Luôn hướng tới việc tận dụng mọi cơ hội để sáng tạo, từ cách chơi guitar ngược, dội âm theo nguyên tắc chai thủy tinh, thu âm băng ngược để có đoạn chơi ngược,... tất cả đều có trong những sản phẩm thu âm của họBản mẫu:Sfn. Niềm đam mê tạo nên những âm thanh mới trong mỗi bản thu cùng với khả năng hòa âm tuyệt vời của Martin cùng với tài năng của các kỹ thuật viên kinh nghiệm của EMI như Norman Smith, Ken Townsend và Geoff Emerick, đã tạo nên những ấn tượng vô cùng đặc trưng kể từ Rubber Soul, và có lẽ rõ ràng hơn, kể từ RevolverBản mẫu:Sfn. Cùng với những cải tiến về kỹ thuật thu âm và hiệu ứng âm thanh, những vị trí đặt micro bất bình thường, băng thâu, ghi âm đè và thay đổi tốc độ băng thâu, The Beatles cũng đưa vào nhiều nhạc cụ chưa từng được sử dụng với nhạc rock vào thời điểm đó. Những nhạc cụ kể trên bao gồm dàn dây và dàn hơi cùng những nhạc cụ Ấn Độ như sitar trong "Norwegian Wood" và swarmandal trong "Strawberry Fields Forever"Bản mẫu:Sfn. Họ cũng sử dụng nhiều nhạc cụ điện mới như mellotron mà McCartney chơi trong phần mở đầu của "Strawberry Fields"Bản mẫu:Sfn, hay chiếc clavioline – chiếc keyboard đặc biệt đã tạo nên hiệu ứng như kèn ô-boa trong "Baby, You're a Rich Man"Bản mẫu:Sfn.
Tôn vinh[sửa]
- Xem chi tiết: The Beatles trong văn hóa đại chúng
Cựu cộng tác viên của tờ Rolling Stone, Robert Greenfield, so sánh The Beatles với danh họa Pablo Picasso "người nghệ sĩ dám phá vỡ những quy tắc của thời kỳ của mình để đi tới một thứ độc nhất và căn nguyên... Đối với âm nhạc quần chúng, không thể có điều gì có thể cách mạng hơn, sáng tạo hơn, riêng biệt hơn..."Bản mẫu:Sfn Họ không chỉ mở ra thời kỳ British Invasion ở MỹBản mẫu:Sfn, họ còn trở thành hiện tượng nổi tiếng toàn cầuBản mẫu:Sfn[gc 26].
Những cải tiến của ban nhạc đã tạo nên niềm cảm hứng cho vô vàn nghệ sĩ trên toàn thế giớiBản mẫu:Sfn. Rất nhiều nghệ sĩ đã tiếp nhận ảnh hưởng từ The Beatles và có được những thành công tại các bảng xếp hạng khi hát lại các ca khúc của ban nhạc. Trên sóng phát thanh, sự xuất hiện của họ đánh dấu một thời kỳ mới; năm 1968, phát thanh viên đài WABC ở New York từng cấm DJ cho phát bất cứ ca khúc nào "tiền-Beatles"Bản mẫu:Sfn. Họ cũng góp phần định nghĩa lại album là một khối thống nhất chứ không phải là các bản hit theo kèm là những ca khúc "lấp chỗ trống"Bản mẫu:Sfn, và họ cũng là những người đầu tiên cách tân các video ca nhạcBản mẫu:Sfn. Buổi diễn của ban nhạc tại sân vận động Shea Stadium mở màn tour diễn vòng quanh nước Mỹ năm 1965 thu hút 55.600 khán giảBản mẫu:Sfn và đây chính là buổi diễn ngoài trời lớn nhất lịch sử. Spitz miêu tả sự kiện này "một cơn địa chấn... một bước tiến khổng lồ trong việc định hình lại khái niệm buổi trình diễn thương mại"Bản mẫu:Sfn. Trang phục và đặc biệt kiểu tóc của họ – thứ vốn trở thành biểu tượng của phong trào giải phóng xã hội – có ảnh hưởng toàn cầu về mặt thời trangBản mẫu:Sfn.
Theo Gould, The Beatles đã thay đổi cách người nghe thưởng thức âm nhạc quần chúng, mặt khác đưa nó vào cuộc sống chính mình. Kể từ thời kỳ Beatlemania, sự nổi tiếng của ban nhạc đã trở thành hiện thân của những chuyển biến văn hóa xã hội của thập kỷ. Là biểu tượng của phong trào phản văn hóa thập niên 1960, họ chính là chất xúc tác đưa những người phóng túng tự do và những nhà hoạt động xã hội tới những chủ đề tranh luận đa dạng, thúc đẩy những hoạt động như phong trào giải phóng phụ nữ, phong trào giải phóng người đồng tính và bảo vệ môi trườngBản mẫu:Sfn. Theo Peter Lavezzoli, sau sự kiện gây tranh cãi "nổi tiếng hơn cả Chúa Jesus" vào năm 1966, The Beatles đã cảm thấy áp lực hơn trước mỗi phát ngôn của mình và "bắt đầu những cố gắng đầy toan tính mỗi khi truyền đạt một thông điệp về sự thông thái hay về kiến thức sâu xa."Bản mẫu:Sfn
Giải thưởng và thành tựu[sửa]
- Xem chi tiết: Danh sách đề cử và giải thưởng của The Beatles
Năm 1965, nữ hoàng Elizabeth II đã trao tặng tước hiệu Thành viên Hoàng gia Anh (MBE) cho ban nhạcBản mẫu:Sfn. Bộ phim Let It Be cũng giành tượng vàng Oscar năm 1971 cho Nhạc phim xuất sắc nhấtBản mẫu:Sfn. Ngoài 7 giải Grammy và 15 giải Ivor NovelloBản mẫu:Sfn, The Beatles còn có 6 album đạt chứng chỉ Kim cương, 24 album đạt chứng chỉ đa-Bạch kim, 39 album đạt chứng chỉ Bạch kim và 45 album đạt chứng chỉ Vàng tại MỹBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn. Tại Anh, ban nhạc có 4 album đa-Bạch kim, 4 album Bạch kim, 8 album Vàng và 1 album BạcBản mẫu:Sfn. Họ được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 1998.
Với ít nhất 600 triệu đĩa đã bán[2][3], The Beatles là ban nhạc có số đĩa bán chạy nhất lịch sử (theo EMI, con số này là 1 tỷBản mẫu:SfnBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn). Họ cũng là nghệ sĩ có nhiều album quán quân nhất tại Anh (với 15 album)Bản mẫu:Sfn và bán được tổng cộng 21,9 triệu đĩa đơn, nhiều hơn bất kể nghệ sĩ nào khácBản mẫu:Sfn. Năm 2004, tạp chí danh giá Rolling Stone xếp The Beatles là nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đạiBản mẫu:Sfn. Năm 2008, họ cũng có được vị trí số một trong danh sách nghệ sĩ thành công nhất tại Billboard Hot 100 nhân dịp kỷ niệm 50 năm ra đời của bảng xếp hạngBản mẫu:Sfn[15]. Tính tới năm 2012, họ chính là nghệ sĩ có nhiều đĩa đơn quán quân nhất tại bảng xếp hạng trên với 20 đĩa đơnBản mẫu:Sfn[16]. RIAA chứng nhận The Beatles bán được 117 triệu đĩa tại Mỹ, nhiều hơn bất kể nghệ sĩ nào khácBản mẫu:Sfn. Họ cũng được có tên trong danh sách "Nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20" của tạp chí TimeBản mẫu:Sfn. Năm 2014, The Beatles được trao giải Grammy Thành tựu trọn đời[17].
Danh sách đĩa nhạc[sửa]
- Xem chi tiết: Danh sách đĩa nhạc của The Beatles
- LP gốc phát hành tại Anh
- Please Please Me (1963)
- With the Beatles (1963)
- A Hard Day's Night (1964)
- Beatles for Sale (1964)
- Help! (1965)
- Rubber Soul (1965)
- Revolver (1966)
- Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band (1967)
- The Beatles (1968)
- Yellow Submarine (1969)
- Abbey Road (1969)
- Let It Be (1970)
Cần xem thêm EP Long Tall Sally (1964) và EP-kép Magical Mystery Tour (1967) vốn không nằm trong danh sách EP gốc tại Anh. Khi 2 sản phẩm trên được tái bản dưới định dạng CD, ấn bản tại Mỹ của Magical Mystery Tour cũng được tái bản toàn bộ và album tuyển tập Past Masters cũng được phát hành, vậy nên tất cả các ca khúc của The Beatles đều có thể được tìm thấy dưới định dạng CD.
- Bổ sung
- Danh sách đĩa nhạc của John Lennon
- Danh sách đĩa nhạc của Paul McCartney
- Danh sách đĩa nhạc của George Harrison
- Danh sách đĩa nhạc của Ringo Starr
Tác quyền ca khúc[sửa]
Tới năm 1969, lưu trữ của The Beatles hầu hết thuộc về Northern Songs – một công ty được thành lập bởi Dick James để bảo vệ tác quyền của Lennon và McCartney, rồi sau đó của nhiều nghệ sĩ khác. Công ty được quản lý bởi James và Emmanuel Silver, toàn quyền về lợi nhuận với hơn 50% đóng góp cổ phần. McCartney được 20% lợi nhuận, Lennon 19-20% còn Epstein được 9-10% trong khi bình thường anh vẫn được nhận 25% kèm công tác phíBản mẫu:SfnBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn.
Năm 1965, công ty không còn thuộc quyền sở hữu tư nhân nữa. Gần 5 triệu cổ phiếu được niêm yết với mệnh giá tổng cộng tới 3,75 triệu $. James và Silver sở hữu 935.000 cổ phiếu, Lennon và McCartney sở hữu lần lượt 750.000 cổ phiếu còn công ty của Epstein – NEMS – được nhận 375.000 cổ phiếu. Trong số 1,25 triệu cổ phiếu còn lại, Starr và Harrison chỉ nhận lần lượt 40.000 cổ phiếuBản mẫu:Sfn. Cùng lúc công ty được đưa lên sàn chứng khoán, Lennon và McCartney cũng ký hợp đồng mới có thời hạn 3 năm ràng buộc họ với Northern Songs tới năm 1973Bản mẫu:Sfn.
Harrison thành lập công ty Harrisongs nhằm giới thiệu những sáng tác của mình trong thời kỳ The Beatles, nhưng rồi sau đó cũng ký hợp đồng với Northern Songs để chia sẻ bản quyền cho tới tháng 3 năm 1968, bao gồm cả những ca khúc như "Taxman", "Within You Without You"Bản mẫu:Sfn. Những ca khúc đồng sáng tác bởi Starr trước năm 1968 như "What Goes On" và "Flying" cũng thuộc quyền sở hữu của Northern SongsBản mẫu:Sfn. Harrison không ký hợp đồng mới với Northern Songs mà ký hợp đồng với Apple Corps nhằm giúp anh giữ được bản quyền tất cả các sáng tác của mình. Kể từ đó, Harrison đã không mất bản quyền cho những sáng tác sau này cho The Beatles như "While My Guitar Gently Weeps" và "Something". Cùng năm, Starr thành lập công ty Startling Music nhằm giữ bản quyền cho các sáng tác của mình như "Don't Pass Me By" và "Octopus's Garden"Bản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn.
Tháng 3 năm 1969, James bí mật thu xếp bán cổ phần của mình và Silver cho hãng truyền hình Anh quốc Associated Television (ATV) được thành lập bởi Lew Grade mà không thông báo cho The Beatles. Ban nhạc buộc phải thương thảo để dành lấy tác quyền qua việc đưa ra đề nghị rằng hãng truyền hình có trụ sở ở London được quyền nắm 14% lợi nhuậnBản mẫu:Sfn. Tuy nhiên, điều khoản này bị từ chối bởi Lennon khi anh tuyên bố "tôi phát ốm vì mấy gã ăn mặc bảnh bao béo mập ngồi ở văn phòng trên Thành phố"Bản mẫu:Sfn. Tới cuối tháng 5, ATV đã có được phần lớn sản phẩm của Northern Songs, kiểm soát hầu hết các lưu trữ của Lennon-McCartney cũng như những sáng tác cho tới năm 1973. Quá thất vọng, cả Lennon và McCartney đều bán hết cổ phiếu của mình cho ATV vào cuối tháng 10 năm 1969Bản mẫu:Sfn.
Năm 1981, ACC – công ty mẹ của ATV – làm ăn thua lỗ, buộc họ phải rao bán mảng âm nhạc của mình. Theo 2 tác giả Brian Southall và Rupert Perry, Grade đã liên lạc với McCartney đề nghị bán ATV và Northern Songs với giá 30 triệu $Bản mẫu:Sfn. Theo lời McCartney kể lại vào năm 1995, anh đã gặp Grade và giải thích mình chỉ quan tâm duy nhất tới Northern Songs vậy nên anh chỉ mua lại nếu Grade chịu "phân tách" lời đề nghị. Không lâu sau, Grade rao bán Northern Songs với giá 20 triệu £ và cho các cựu-Beatles "1 tuần để suy nghĩ". Theo McCartney, anh và Ono có đề nghị với giá 5 triệu £ song bị từ chốiBản mẫu:Sfn. Theo nhiều nguồn vào thời điểm đó, Grade sau đó từ chối lời đề nghị mua Northern Songs rồi cũng từ chối lời mua lại ATV Music từ Ono và McCartney với giá 21-25 triệu £. Năm 1982, ACC được mua lại bởi doanh nhân người Úc, Robert Holmes à Court, với giá 60 triệu £Bản mẫu:Sfn.
3 năm sau, Michael Jackson mua lại ATV với giá 47,5 triệu $. Thương vụ giúp anh kiểm soát toàn bộ hơn 200 ca khúc của The Beatles, cùng với đó là hơn 40.000 hợp đồng bản quyềnBản mẫu:Sfn. Năm 1995, Jackson sát nhập công ty với Sony để thành lập nên công ty phát hành Sony/ATV Music Publishing mà anh nắm giữ 50% cổ phần. Công ty mới này được định giá tới hơn nửa tỷ $ và trở thành hãng quản lý âm nhạc lớn thứ 3 thế giớiBản mẫu:Sfn.
Cho dù bị mất tác quyền của phần lớn những sáng tác, song những người thừa kế hợp pháp của Lennon và bản thân McCartney vẫn được nhận % theo luật bản quyền, giúp họ có được 33⅓% doanh thu từ Mỹ và 50-55% doanh thu trên toàn thế giớiBản mẫu:Sfn. 2 ca khúc đầu tiên của Lennon-McCartney, "Love Me Do" và "P.S. I Love You", được phát hành bởi công ty con của EMI – Ardmore & Beechwood – trước khi họ ký hợp đồng với James. McCartney mua lại Ardmore vào giữa những năm 1980Bản mẫu:Sfn, và đây trở thành 2 ca khúc duy nhất của The Beatles thuộc quyền sở hữu của công ty MPL Communications của McCartneyBản mẫu:Sfn.
Ghi chú[sửa]
- ↑ Bruno Koschmider, sinh năm 1926 ở Danzig, mất năm 2000 ở Hamburg, là một doanh nhân người Đức. Ngoài nổi tiếng với việc ký hợp đồng với The Beatles, ông còn quản lý nhiều câu lạc bộ và hộp đêm tại Hamburg, trong đó có The Indra Club, Kaiserkeller và rạp chiếu phim The Bambi Kino.
- ↑ Viết tắt của cụm từ "existentialism", đại ý mô phỏng kiểu tóc của những nhà triết học theo chủ nghĩa hiện sinh.
- ↑ Các sản phẩm được ghi cho "Tony Sheridan & the Beat Brothers", trong đó đĩa đơn "My Bonnie", được thu vào tháng 6 năm 1961 và phát hành 4 tháng sau đó, đạt vị trí 32 tại bảng xếp hạng MusikmarktBản mẫu:Sfn.
- ↑ Trong khoảng từ đầu tới giữa năm 1962, Epstein quyết định mua lại tất cả ràng buộc hợp đồng giữa The Beatles với Bert Kaempfert Productions. Ông cũng đạt được thỏa thuận phát hành 1 tháng sớm hơn dự kiến các bản thu của ban nhạc khi còn ở HamburgBản mẫu:Sfn.
- ↑ Martin ban đầu muốn thu một LP trực tiếp của ban nhạc trình diễn tại The Cavern Club, nhưng sau khi nhận thấy rằng cơ sở vật chất của hộp đêm là không tương quan, ông quyết định thực hiện một album "live" với ít hiệu ứng nhất "một buổi marathon tại Abbey Road"Bản mẫu:Sfn.
- ↑ "À la" là cấu trúc rất câu nệ trong tiếng Pháp, tạm dịch là "theo kiểu".
- ↑ Ban nhạc đi tour vòng quanh nước Anh 3 lần chỉ trong vòng 6 tháng ở Anh: tour diễn 4 tuần đầu tiên bắt đầu vào tháng 2, và 2 tour diễn 3 tuần sau đó được diễn ra vào tháng 3 và tháng 5-6 năm 1963Bản mẫu:Sfn.
- ↑ Cho dù không phải là nghệ sĩ tổ chức tour diễn, The Beatles vẫn phủ bóng lên những nghệ sĩ người Mỹ như Tommy Roe và Chris Montez trong suốt cao điểm tháng 2 và đứng đầu "theo số lượng vé đặt" – điều mà theo Lewisohn viết thì chưa có nghệ sĩ Anh nào từng đạt được khi đi tour cùng một nghệ sĩ từ nước MỹBản mẫu:Sfn. Điều này tiếp tục được lặp lại trong tour diễn tháng 5-6 của ban nhạc cùng Roy OrbisonBản mẫu:Sfn.
- ↑ Tới cuối tháng 11 năm 1963, EMI cho phát hành With the Beatles với số lượng 270.000 bản, và bản LP đạt ngưỡng nửa triệu chỉ trong vòng 1 tuần kể từ ngày phát hànhBản mẫu:Sfn.
- ↑ Trái với những cách thức bán đĩa thông thường, EMI cho phát hành album trước đĩa đơn "I Want to Hold Your Hand", với ca khúc không nằm trong album nhằm tối đa hóa lượng đĩa bán đượcBản mẫu:Sfn.
- ↑ Tạm dịch là "tứ quái". Khái niệm "Fab Four" về sau gắn liền với The Beatles như một tên gọi không chính thức.
- ↑ Được toàn quyền quản lý về hình thức và định dạng, Capitol bắt đầu thay đổi nội dung các sản phẩm vào tháng 12 năm 1963Bản mẫu:Sfn khi tự biên tập album phát hành tại Mỹ theo những bản thu cũng như tự lựa chọn các ca khúc mà họ muốn làm đĩa đơnBản mẫu:Sfn.
- ↑ Cách chơi đàn guitar 12-dây Harrison được lấy cảm hứng từ Roger McGuinn, người cũng thường xuyên chơi với cây Rickenbacker và dùng nó để tạo nên âm thanh thương hiệu của The ByrdsBản mẫu:Sfn.
- ↑ Cũng trong tuần đó, bản LP thứ ba của The Beatles tại Mỹ cũng được phát hành; 2 trong tổng số 3 album trên đạt vị trí quán quân tại Billboard, trong khi album còn lại cũng có được vị trí số 2Bản mẫu:Sfn.
- ↑ Starr phải nhập viện một thời gian ngắn để phẫu thuật vòm họng, và Jimmie Nicol phải thay thế anh chơi trống trong 5 buổi diễn đầu tiênBản mẫu:Sfn.
- ↑ Từ được sử dụng là "teenybopper" để chỉ cho những cô cậu nhóc mới lớn bị ảnh hưởng bởi âm nhạc, thời trang và văn hóa. Thông thường chúng sẽ theo một tiểu thể loại văn hóa nhất định nào đóBản mẫu:SfnBản mẫu:Sfn.
- ↑ Tháng 9 năm 1964, The Beatles từng không đồng ý trình diễn tại Florida cho tới khi nhà quản lý địa phương đảm bảo khán giả không có những hành vi phân biệt chủng tộc và nguồn gốc xuất xứ của ban nhạcBản mẫu:Sfn.
- ↑ Lysergic acid diethylamide là một hợp chất tinh thể, C20H25N3O, có nguồn gốc từ axit lysergic có trong một số loại nấm. Với mục đích ban đầu để giảm đau và điều trị thần kinh với liều lượng nhỏ, chất này sau đó được sử dụng như một loại chất kích thích gây ảo giác mạnh.
- ↑ Đã có lúc sách Sách Kỷ lục Guinness từng công nhận "Yesterday" là ca khúc được hát lại nhiều nhất lịch sử với 2.200 lần đã được kiểm chứng. Tuy nhiên, ca khúc "Summertime" – bản nhạc hòa tấu được sáng tác bởi George Gershwin cho vở opera năm 1935 Porgy and Bess – đã chiếm vị trí này khi có được 30.000 buổi trình diễn đã từng được ghi nhận, bỏ xa con số 1.600 buổi diễn của "Yesterday".[5]
- ↑ Trong tháng 9, serie phim hoạt hình, The Beatles, bắt đầu được trình chiếu vào mỗi sáng thứ 7 tại Mỹ trong suốt 2 năm với nội dung hài hước phỏng theo bộ phim A Hard Day's NightBản mẫu:Sfn.
- ↑ Khu thiền đặc biệt của đạo Hindu. Thông thường ashram là nơi để lĩnh hội tôn giáo, tĩnh tâm và tập luyện yoga.
- ↑ Butlin's là công ty tư nhân tổ chức nghỉ dưỡng dài ngày của Anh, được thành lập bởi Billy Butlin vào năm 1936. Là một công ty đa chức năng, năm 2010 họ từng đạt lợi nhuận tới 184,6 triệu £[7].
- ↑ Nguyên văn "accused the group of getting their tongues caught in their cheeks" hàm ý chê bai giống câu "uốn lưỡi trước khi nói".
- ↑ Ban nhạc không thành công trong việc cấm phát hành album Live! at the Star-Club in Hamburg, Germany; 1962 vào năm 1977. Sản phẩm này đã tự do lựa chọn những ca khúc trong chuyến đi Hamburg trước đây của nhóm khi họ chỉ thu âm với máy thu đơn giản cùng microBản mẫu:Sfn.
- ↑ "Tangerine tree" và "marmalade skies" trích từ câu "Picture yourself in a boat on a river, with tangerine trees and marmalade skies" – câu hát đầu tiên của ca khúc "Lucy in the Sky with Diamonds". "Cellophane flowers" là cụm từ trong câu "Cellophane flowers of yellow and green, towering over your head" cũng nằm trong bài hát trên.
- ↑ Kể từ thập niên 1920, nền văn hóa Mỹ đã thống trị ngành giải trí thế giới thông qua những bộ phim từ Hollywood, jazz, nhạc kịch Broadway, Tin Pan Alley rồi sau đó là nhạc rock 'n' roll bắt nguồn từ Memphis, TennesseeBản mẫu:Sfn.
Tham khảo[sửa]
- ↑ Bản mẫu:Allmusic
- ↑ 2,0 2,1 Staff Writers, CNNMoney.com. “Beatles' remastered box set, video game out”, CNNMoney.com, ngày 9 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2011.
- ↑ 3,0 3,1 Hotten, Russell. “The Beatles at 50: From Fab Four to fabulously wealthy”, BBC News, ngày 4 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2013.
- ↑ “A Hard Day's Night (1964) — Awards”. Imdb. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- ↑ “The Summertime Connection”. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- ↑ Về giải thưởng Grammy năm 1968, xem thêm tại “10th Annual GRAMMY Awards”. GRAMMY.com. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Về album nhạc rock đạt giải Grammy cho Album của năm, xem thêm tại Glausser 2011, tr. 143
- ↑ Butlins Skyline Ltd, Report and Financial Statements 31 tháng 12 năm 2010
- ↑ Brown, Mark. “Beatles for sale: copyright laws force Apple to release 59 tracks”, ngày 12 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
- ↑ Knopper, Steve (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). “Beatles Surprise With 'Beatles Bootleg Recordings 1963 Release'”. Rolling Stone. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- ↑ Paul McCartney and Ringo Starr Share Grammy Stage for Rare Performance, Rolling Stone. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2014
- ↑ Thịnh Joey (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). “The Beatles – nửa thế kỷ, một huyền thoại”. Vnexpress.net. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- ↑ GRAMMY Beatles Special To Air Feb. 9, 2014 Grammy Awards. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2013.
- ↑ Paul McCartney, Ringo Starr to be interviewed by David Letterman for 'Grammy Salute to the Beatles' Cleveland Plain Dealer. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ↑ “Pop/Rock » British Invasion » Merseybeat”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- ↑ “Billboard Hot 100 Chart 50th Anniversary”, Billboard. Truy cập October 1, 2009. Bản chính được lưu trữ ngày September 13, 2008.
- ↑ Trust, Gary (March 21, 2016). “Rihanna Rules Hot 100 for Fifth Week, Ariana Grande Debuts at No. 10”. Billboard. Truy cập March 23, 2016.
- ↑ “Paul McCartney and Ringo Starr Share Grammy Stage for Rare Performance”. RollingStone.com (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
Thư mục[sửa]
- Huỳnh Chí Viễn (ngày 19 tháng 10 năm 2010). The Beatles – Nửa thế kỉ, một huyền thoại. Nhà xuất bản Văn học. http://trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=6027&catid=11. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
- Aswad, Jem. “Beatles End Digital Boycott, Catalog Now on iTunes”, Rolling Stone, ngày 16 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2010.
- Austerlitz, Saul (2007). Money for Nothing: A History of the Music Video, from The Beatles to The White Stripes. Ann Arbor: University of Michigan Press. ISBN 0-7119-7520-5.
- Badman, Keith (1999). The Beatles After the Breakup 1970–2000: A Day-by-Day Diary (ấn bản 2001). London: Omnibus. ISBN 978-0-7119-8307-6. http://books.google.ca/books?id=wTZRwz8N9jIC&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- “George Harrison Dies”, BBC News, ngày 30 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2009.
- “Faces of the Week: Brian Wilson”, BBC News, ngày 3 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2009.
- “60s Season – Documentaries”. BBC Radio 2. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- The Beatles (2000). The Beatles Anthology. San Francisco: Chronicle Books. ISBN 978-0-8118-2684-6. http://books.google.com/books?id=HWuQu8EMDKcC&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Benson, Bruce Ellis (2003). The Improvisation of Musical Dialogue: A Phenomenology of Music. Cambridge and New York: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-00932-4. http://books.google.com/?id=qJ1Q7ZeRr5EC&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- “The Billboard Hot 100 All-Time Top Artists (20-01)”. Billboard (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Most No. 1s By Artist (All-Time)”. Billboard (2008). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Brown, Peter; Gaines, Steven (2002). The Love You Make: An Insider's Story of The Beatles. New York: New American Library. ISBN 978-0-451-20735-7.
- Campbell, Michael (2008). Popular Music in America: The Beat Goes On. East Windsor, CT: Wadsworth. ISBN 978-0-495-50530-3. http://books.google.com/books?id=nIZSM3zxNUEC&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Collett-White, Mike. “McCartney Hints at Mythical Beatles Track Release”, Reuters, ngày 17 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009.
- Collett-White, Mike. “Original Beatles digitally remastered”, Reuters, ngày 7 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2009.
- Costello, Elvis (2004). “100 Greatest Artists: The Beatles”. Rolling Stone. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Universal plans to launch Capitol UK”. Complete Music Update (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Beatles '1' is fastest selling album ever”, CNN, ngày 6 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2012.
- Davies, Hunter (1968). The Beatles (ấn bản Revised 2009). New York & London: W.W. Norton. ISBN 978-0-393-33874-4. http://books.google.ca/books?id=WpsszVLFsMEC&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Doggett, Peter (2009). You Never Give Me Your Money: The Beatles After the Breakup (ấn bản 1st US hardcover). New York: Harper. ISBN 978-0-06-177446-1. http://books.google.com/books?id=luOMJFxe-bYC&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Eccleston, Danny. “Beatles Remasters Reviewed”, Mojo, ngày 9 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2009.
- Emerick, Geoff; Massey, Howard (2006). Here, There and Everywhere: My Life Recording the Music of The Beatles. New York: Gotham. ISBN 978-1-59240-179-6.
- Emerson, Bo. “Beatles Atlanta Show Made History in More Ways than One”, Atlanta Journal-Constitution, ngày 6 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2012.
- Bản mẫu:Cite press release
- Erlewine, Stephen Thomas (2009a). “Please Please Me”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Erlewine, Stephen Thomas (2009b). “With the Beatles”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Erlewine, Stephen Thomas (2009c). “A Hard Day's Night”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Erlewine, Stephen Thomas (2009d). “The Beatles (White Album)”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Everett, Walter (1999). The Beatles as Musicians: Revolver through the Anthology. Oxford and New York: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-512941-0. http://books.google.ca/books?id=eTkHAldi4bEC&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Everett, Walter (2001). The Beatles As Musicians: The Quarry Men through Rubber Soul. Oxford and New York: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-514105-4. http://books.google.ca/books?id=UmrVa2U7jB0C&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Fisher, Marc (2007). Something in the Air. New York: Random House. ISBN 978-0-375-50907-0. http://books.google.ca/books?id=KLNVmbXDZIcC&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Gaffney, Dennis (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). “The Beatles' "Butcher" Cover”. Antiques Roadshow Online. Public Broadcasting Service.
- Gaines, Steven (1986). Heroes and Villains: The True Story of The Beach Boys. New York: New American Library. ISBN 978-0-453-00519-7. http://books.google.ca/books?id=spwdCTYbJP4C&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Bản mẫu:Gilliland
- Glennie, Alisdair. “Madonna Sets a New Record for Most No.1 Albums by Solo Singer with New Release MDNA”, Daily Mail, ngày 1 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
- Gould, Jonathan (2007). Can't Buy Me Love: The Beatles, Britain and America. New York: Three Rivers Press. ISBN 978-0-307-35338-2. http://books.google.fr/books/about/Can_t_Buy_Me_Love.html?id=8X2gGAAACAAJ&redir_esc=y. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Gross, Doug. “Still Relevant After Decades, The Beatles Set to Rock ngày 9 tháng 9 năm 2009”, CNN, ngày 4 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2009.
- “Grammy Past Winners Search”. Grammy.com. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Best Selling Group”. Guinness World Records. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Most Recorded Song”. Guinness World Records. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Harris, Jonathan (2005). "Introduction: Abstraction and Empathy—Psychedelic Distortion and the Meaning of the 1960s". trong Grunenberg, Christoph, and Jonathan Harris, eds. Summer of Love: Psychedelic Art, Social Crisis and Counterculture in the 1960s. Liverpool: Liverpool University Press. ISBN 978-0-85323-919-2.
- Harry, Bill (2000a). The Beatles Encyclopedia: Revised and Updated. London: Virgin. ISBN 978-0-7535-0481-9.
- Harry, Bill (2003). The George Harrison Encyclopedia. London: Virgin. ISBN 978-0-7535-0822-0.
- Harry, Bill (2000b). The John Lennon Encyclopedia. London: Virgin. ISBN 978-0-7535-0404-8.
- Harry, Bill (2002). The Paul McCartney Encyclopedia. London: Virgin. ISBN 978-0-7535-0716-2.
- Hertsgaard, Mark (1995). "We All Want to Change the World: Drugs, Politics, and Spirituality". A Day in the Life:The Music and Artistry of the Beatles. ISBN 0-385-31517-1. http://www.scribd.com/doc/67755284/We-All-Want-to-Change-the-World-Drugs-Politics-and-Spirituality. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Hurwitz, Matt (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). “The Naked Truth About The Beatles' Let It BeNaked [sic”]. Mix. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Ingham, Chris (2006). The Rough Guide to The Beatles. London: Rough Guides. ISBN 978-1-84353-720-5.
- Inglis, Ian (2008). "Cover Story: Magic, Myth and Music". trong Julien, Olivier. Sgt. Pepper and the Beatles: It Was Forty Years Ago Today. Aldershot, UK, and Burlington, VT: Ashgate. ISBN 978-0-7546-6249-5.
- Kaplan, David. “PDA Digital Content Blog: Beatles Tracks Not Coming to iTunes Any Time Soon; McCartney: Talks at an Impasse”, The Guardian, ngày 25 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- Kozinn, Allan. “Beatles and Record Label Reach Pact and End Suit”, The New York Times, ngày 10 tháng 11 năm 1989. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2009.
- La Monica, Paul R.. “Hey iTunes, Don't Make It Bad...”, CNNMoney.com, ngày 7 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2009.
- Lavezzoli, Peter (2006). The Dawn of Indian Music in the West: Bhairavi. New York and London: Continuum. ISBN 978-0-8264-1815-9. http://books.google.com/books?id=OSZKCXtx-wEC&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Levine, Robert (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). “Paul McCartney: The Billboard Q&A”. Billboard. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Lewis, Randy. “Beatles' Catalog Will Be Reissued Sept. 9 in Remastered Versions”, Los Angeles Times, ngày 8 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2009. Bản chính được lưu trữ ngày ngày 11 tháng 4 năm 2009.
- Lewis, Randy. “Beatles album catalog will get back to vinyl Nov. 13”, Los Angeles Times, ngày 27 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2012.
- Lewisohn, Mark (1988). The Complete Beatles Recording Sessions. New York: Harmony. ISBN 978-0-517-57066-1.
- Lewisohn, Mark (1992). The Complete Beatles Chronicle:The Definitive Day-By-Day Guide To the Beatles' Entire Career (ấn bản 2010). Chicago: Chicago Review Press. ISBN 978-1-56976-534-0.
- Loder, Kurt. “The Time 100”, Time, ngày 8 tháng 6 năm 1998. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. Bản chính được lưu trữ ngày ngày 22 tháng 8 năm 2008.
- Lustig, Jay. “Paul McCartney, Ringo Starr Perform Together in Support of Transcendental Meditation”, NJ.com, ngày 5 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
- MacDonald, Ian (2005). Revolution in the Head: The Beatles' Records and the Sixties (ấn bản 2nd revised). London: Pimlico. ISBN 1-84413-828-3.
- Martens, Todd. “Meet the Beatles' USB Drive; EMI Files Suit Against BlueBeat for Selling Beatles Downloads”, Los Angeles Times, ngày 4 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
- Martin, George (1979). All You Need Is Ears. New York: St. Marten's Press. ISBN 978-0-312-11482-4. http://books.google.com/books?id=4Yoio9MewhcC&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- McNeil, Alex (1996). Total Television: The Comprehensive Guide to Programming From 1948 to the Present (ấn bản 4th). New York City: Penguin Books. ISBN 978-0-14-024916-3.
- McQuiggin, Jim (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). “Defiant, Subversive, Ultimately Triumphant”. Pagosa Springs Sun. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Miles, Barry (1997). Paul McCartney: Many Years from Now. New York: Henry Holt and Company. ISBN 0-8050-5249-6.
- Miles, Barry (1998). The Beatles: A Diary—An Intimate Day by Day History. London: Omnibus. ISBN 0-7119-9196-0.
- “Beatles to Release New Album”. NME (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Norman, Philip (1996). Shout!: The Beatles in Their Generation. New York: Fireside. ISBN 978-0-684-43254-0.
- Norman, Philip (2008). John Lennon: The Life. New York: Ecco/HarperCollins. ISBN 978-0-06-075401-3.
- “The Official Singles Charts' Biggest Selling Artists of All Time Revealed”. Official Chart Company (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Pedler, Dominic (2003). The Songwriting Secrets of The Beatles. London: Omnibus. ISBN 978-0-7119-8167-6. http://books.google.com/?id=fts1uK4ceJ8C&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Plagenhoef, Scott (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). “Revolver”. Pitchfork. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Top Selling Artists”. Recording Industry Association of America (2009a). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Gold & Platinum Artist Tallies”. Recording Industry Association of America (2009b). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Diamond Awards”. Recording Industry Association of America (2009c). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Richardson, Mark (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.). “The Beatles”. Pitchfork. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- “Inductees: The Beatles”. Rock and Roll Hall of Fame. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Rodriguez, Robert (2010). Fab Four FAQ 2.0: The Beatles' Solo Years, 1970–1980. New York: Backbeat. ISBN 978-0-87930-968-8.
- “The 500 Greatest Albums of All Time”, ngày 18 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009. Bản chính được lưu trữ ngày ngày 23 tháng 6 năm 2008.
- Sandford, Christopher (2006). McCartney. New York: Carroll & Graf. ISBN 978-0-7867-1614-2.
- Schinder, Scott; Schwartz, Andy (2007). Icons of Rock: An Encyclopedia of the Legends Who Changed Music Forever. Westport, CT: Greenwood Press. ISBN 978-0-313-33845-8.
- Southall, Brian; Perry, Rupert (contributor) (2006). Northern Songs: The True Story of the Beatles Song Publishing Empire. London et al.: Omnibus. ISBN 978-1-84609-237-4. http://books.google.com/books?id=HWSRvGfa3-sC&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Sheff, David (1981). Golson, G. Barry. ed. The Playboy Interviews with John Lennon and Yoko Ono. Playboy. ISBN 978-0-87223-705-6.
- “George Harrison's Death Certificate”. The Smoking Gun. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Spitz, Bob (2005). The Beatles: The Biography. New York: Little, Brown. ISBN 978-0-316-80352-6.
- Strong, Martin (2004). The Great Rock Discography. Edinburgh and New York: Canongate. ISBN 1-84195-615-5. http://books.google.com/books?id=_WoRAPJQ58sC&printsec=frontcover&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Unterberger, Richie (2009a). “Biography of The Beatles”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Unterberger, Richie (2009b). “Rubber Soul”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Unterberger, Richie (2009c). “Magical Mystery Tour”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Unterberger, Richie (2009d). “Abbey Road”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Unterberger, Richie (2009e). “Let It Be”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Unterberger, Richie (2009). “Yellow Submarine”. Allmusic. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- Winn, John C. (2008). Way Beyond Compare: The Beatles' Recorded Legacy, Volume One, 1957–1965. New York: Three Rivers Press. ISBN 978-0-307-45157-6. http://books.google.com/books?id=UwvYhxcBr5oC. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Winn, John C. (2009). That Magic Feeling: The Beatles' Recorded Legacy, Volume Two, 1966–1970. New York: Three Rivers Press. ISBN 978-0-307-45239-9. http://books.google.com/books?id=LdsMqbAQJWgC&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Womack, Kenneth (2007). Long and Winding Roads: The Evolving Artistry of the Beatles. London & New York: Continuum. ISBN 978-0-8264-1746-6.
- Tài liệu khác
- Astley, John (2006). Why Don't We Do It In The Road? The Beatles Phenomenon. The Company of Writers. ISBN 0-9551834-7-2. http://books.google.com/?id=JZzwWc6bOlIC&lpg=PP1&dq=Why%20Don't%20We%20Do%20It%20In%20The%20Road%3F%20The%20Beatles%20Phenomenon&pg=PP1#v=onepage&q&f=true.
- Barrow, Tony (2005). John, Paul, George, Ringo & Me: The Real Beatles Story. New York: Thunder's Mouth. ISBN 1-56025-882-9.
- Bramwell, Tony; Kingsland, Rosemary (2006). Magical Mystery Tours: My Life with the Beatles. New York: St. Martin's Press. ISBN 978-0-312-33044-6.
- Braun, Michael (1964). Love Me Do: The Beatles' Progress (ấn bản 1995 reprint). London: Penguin. ISBN 0-14-002278-3.
- Carr, Roy; Tyler, Tony (1975). The Beatles: An Illustrated Record. New York: Harmony Books. ISBN 0-517-52045-1.
- The Beatles: The FBI Files. Filibust. 2007. ISBN 1-59986-256-5. http://books.google.ca/books?id=yqeIM3MY3gAC&lpg=PA1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Frontani, Michael R (2007). The Beatles: Image and the Media. University Press of Mississippi. ISBN 978-1-57806-965-1. http://books.google.ca/books?id=QHtMYEl4QxsC&lpg=PP1&dq. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Harry, Bill (1985). The Book Of Beatle Lists. Poole, Dorset: Javelin. ISBN 0-7137-1521-9.
- Kirchherr, Astrid; Voormann, Klaus (1999). Hamburg Days. Guildford, Surrey: Genesis Publications. ISBN 978-0-904351-73-6.
- Lennon, Cynthia (2005). John. New York: Crown Publishers. ISBN 978-0-307-33855-6.
- Lewisohn, Mark (2013). The Beatles - All These Years: Volume One: Tune In. Little, Brown Book Group. ISBN 0-316-72960-4.
- Mansfield, Ken (2007). The White Book. Nashville, TN: Thomas Nelson. ISBN 978-1-59555-101-6. http://books.google.ca/books?id=Je7C3JHRs7UC&lpg=PP1&dq=The%20White%20Book&pg=PP1#v=onepage&q&f=true. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
- Martin, George; Pearson, William (1994). Summer of Love: The Making of Sgt. Pepper. London: Macmillan. ISBN 0-333-60398-2.
- Riley, Tim (2011). Lennon: The Man, the Myth, the Music—The Definitive Life. New York: Hyperion/HarperCollins. ISBN 978-1-4013-2452-0.
- Schaffner, Nicholas (1977). The Beatles Forever. Harrisburg, PA: Cameron House. ISBN 0-8117-0225-1.
- Turner, Steve (2005). A Hard Day's Write: The Stories Behind Every Beatles Song (ấn bản 3rd). New York: Harper Paperbacks. ISBN 0-06-084409-4.
Liên kết ngoài[sửa]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về The Beatles |
- Bản mẫu:Official website
- FBI — The Beatles Tài liệu của FBI về The Beatles
- The Hugo Keesing Collection on The Beatles – Tuyển tập chọn lọc về nghệ thuật trình diễn, Đại học Maryland
Bản mẫu:Navboxes Bản mẫu:Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất Bản mẫu:Giải Grammy cho Album của năm
Bản mẫu:Authority control Bản mẫu:Các chủ đề
Liên kết đến đây
- Wikipedia
- Bài viết chọn lọc
- The Beatles
- Phim và người giành Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất
- Người đoạt giải Grammy Thành tựu trọn đời
- Người đoạt giải Grammy
- Người được ghi danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll
- Người đoạt giải World Music Awards
- Người đoạt giải BRIT
- Nghệ sĩ của Apple Records
- Nghệ sĩ của Capitol Records
- Ban nhạc thập niên 1990
- Nghệ sĩ của Parlophone
- Chấm dứt năm 1970 ở Anh
- Khởi đầu năm 1960 ở Anh
- Ban nhạc từ Liverpool