Thiên đường và rào cản của tế bào gốc phôi người

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
Tế bào gốc được cô lập từ tế bào não

6.000 USD cho lọ tế bào gốc là giá mà Công ty ES Cell International của Singapore đưa ra trên thị trường thế giới. Đó là một cái giá cực rẻ bởi từ lọ tế bào gốc này người ta có thể chữa được những căn bệnh "hot" nhất hiện nay như ung thư, tim mạch, tiểu đường hay quan trọng hơn là thay thế một bộ phận cơ thể mà không sợ bị thải loại.

Điều đáng lưu ý ở chỗ ES Cell International chính là công ty đầu tiên trên thế giới thực hiện kinh doanh tế bào gốc phôi người. Tại sao đó không là một công ty của những cường quốc kỹ thuật như Mỹ, Anh hay Úc mà lại là một công ty của đảo quốc sư tử bé nhỏ?

Hiện nay trên thế giới có hai loại tế bào gốc chính đó là tế bào gốc trưởng thành và tế bào gốc phôi người. Trong đó tế bào gốc trưởng thành là loại tế bào gốc có nguồn gốc từ những tế bào thuộc một mô đã trưởng thành như máu cuống rốn, tủy sống... Hạn chế của loại tế bào gốc trưởng thành này là chúng không có khả năng biến hóa đa dạng. Ví dụ như tế bào gốc trưởng thành có nguồn gốc từ tủy sống chỉ có thể tạo ra các tế bào máu mới.

Trong khi đó tế bào gốc phôi người có khả năng biến hóa vô song. Từ một tế bào gốc ban đầu, nó có thể tạo thành bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể người như mong muốn và nó cũng là tiền đề để nhân bản vô tính. Tuy nhiên nguồn gốc của nó là lấy từ một bào thai người 4-5 ngày tuổi.

Ngoài ra còn một loại tế bào gốc nữa là tế bào gốc cuống rốn với khả năng ứng dụng nằm ở giữa hai loại tế bào gốc trưởng thành và tế bào gốc phôi người.

Là một phương pháp kỹ thuật tiên tiến nhất hiện nay, tế bào gốc phôi người được dùng để chữa những căn bệnh nan y, đồng thời có thể khôi phục những loài thú đã tuyệt chủng. Tuy nhiên xét về mặt đạo đức - xã hội, kỹ thuật này gặp rất nhiều rào cản từ mọi phía.

Việc nghiên cứu tế bào gốc trưởng thành trên con người bắt đầu vào những năm 1960. Thành công đầu tiên là khi các nhà khoa học áp dụng tế bào gốc trưởng thành vào việc chữa trị chứng bệnh rối loạn chức năng tự miễn dịch vào năm 1968. Kể từ thập kỷ 1970 trở đi, tế bào gốc trưởng thành được áp dụng rộng rãi để điều trị bệnh suy giảm miễn dịch và ung thư máu.

Song song đó, tế bào phôi người cũng đã được các nhà khoa học nghiên cứu và ứng dụng. Một trong những người sử dụng tế bào phôi người đầu tiên là nhà khoa học John Enders, người đoạt giải Nobel y học vào năm 1954 nhờ ứng dụng tế bào phôi người vào nghiên cứu virus bệnh sốt bại liệt.

Năm 1994, Ariff Bongso, một nhà khoa học Sri Lanka làm việc tại Đại học Quốc gia Singapore, là người đầu tiên trên thế giới tách thành công tế bào gốc từ phôi người. Tuy nhiên do các trục trặc trong thông tin, thế giới hiện nay công nhận James Thomson của Đại học Wisconsin mới là người đầu tiên làm được việc này vào năm 1998.

Để có được một tế bào gốc phôi người, các nhà khoa học sẽ phải phá hủy một phôi người ở giai đoạn 4-7 ngày tuổi. Đây chính là nguyên nhân khiến kỹ thuật tế bào gốc phôi người gặp nhiều sự phản đối ở các nước Tây Âu.

Đa số các nước có nền khoa học phát triển trên thế giới như Mỹ, Pháp, Đức... đều chịu sự tác động rất mạnh của nhà thờ và hiện nay luật phá thai ở các nước này gặp nhiều khó khăn trước khi được thông qua. Và không có gì quá khó hiểu khi nhà thờ kịch liệt phản đối việc sử dụng một bào thai người 4-7 ngày tuổi vào mục đích nghiên cứu.

Trong khối EU có đến 9/15 thành viên cấm nghiên cứu tế bào gốc phôi người. Còn Mỹ, quốc gia có nền kỹ thuật và nghiên cứu hàng đầu thế giới, chính là nước đi đầu trong việc chống đối nghiên cứu tế bào phôi người.

Vào năm 2001, Tổng thống George Bush đã ban hành lệnh cấm dùng tài trợ liên bang cho những nghiên cứu về tế bào gốc nói chung. Và mới nhất vào tháng bảy năm nay, lần đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình Tổng thống Bush đã dùng quyền phủ quyết nhằm chống lại tất cả những nỗ lực để dỡ bỏ lệnh cấm năm 2001 của ông.

Tận dụng cơ hội Mỹ và những nước có nền kỹ thuật hàng đầu thế giới vướng phải một số rào cản về tôn giáo, chính trị không thể nghiên cứu và phát triển tế bào gốc phôi người, các nước châu Á nhận thấy đây là cơ hội cho mình và họ đã không ngần ngại đầu tư rất nhiều tiền vào công nghệ mới này. Và ngày hái quả đã đến.

Năm 2004, một nhóm nhà khoa học Anh sau chuyến tham quan cơ sở vật chất tại bốn điểm Bắc Kinh, Thượng Hải, Seoul và Singapore đã “há hốc mồm” khi tận mắt chứng kiến các phòng thí nghiệm tế bào gốc tại đây vì nó hoàn toàn vượt trội so với phương Tây.

Trên blog của mình, ông Michael Kanellos, biên tập viên của CNET News.com, đã viết một bài với tựa đề “Muốn nghiên cứu tế bào gốc? Hãy đến Singapore”. Ông viết: “Nếu bạn là một nhà nghiên cứu tế bào gốc phôi người, hãy đặt ngay một chuyến bay đến Singapore. ES Cell International đã bắt đầu kinh doanh tế bào gốc phôi người đạt đủ tiêu chuẩn y khoa. ES mạnh dạn tuyên bố cho đến nay chưa có một công ty nào trên thế giới có đủ sức để bán tế bào gốc đủ tiêu chuẩn như của họ. Singapore đặt mục tiêu trở thành quốc gia đứng đầu thế giới về công nghệ sinh học và dược phẩm, và dùng những ưu đãi đặc biệt để chiêu mộ nhân tài trên khắp thế giới trong lĩnh vực này”.

Theo số liệu từ Chính phủ Singapore, từ năm 2000 đến nay, nước này đã chi 949 triệu USD cho công tác nghiên cứu công nghệ sinh học và dự định chi một số tiền tương đương trong vòng năm năm tới. Ngoài ra Singapore cũng cho biết sẽ chi 8,2 tỉ USD cho công tác R&D (nghiên cứu và phát triển), đặc biệt trong lĩnh vực tế bào gốc trong vòng năm năm tới.

Đi đôi với trang thiết bị hiện đại là một chính sách tuyển mộ nhân tài khôn ngoan mà người được giao trọng trách này là giáo sư Philip Yeo. Ông Philip Yeo đã đi khắp thế giới với khẩu hiệu: “Hãy đến Singapore và hoàn thành công trình của bạn ở đó”. Sáu năm lang thang khắp thế giới của Yeo đã không hề vô ích khi có rất nhiều nhà khoa học tên tuổi lần lượt rời bỏ những trường hay viện nghiên cứu danh giá nhất nước Mỹ để đến Singapore làm việc. Hiện tượng này đã được một giáo sư tại Đại học Stanford gọi là “chảy máu chất xám”.

Năm 2002, một tên tuổi lớn trong lĩnh vực tế bào gốc chuyển sang Singapore làm việc. Đó là Alan Colman, nhà khoa học Anh đứng đầu nhóm nhân bản vô tính thành công cừu Dolly vào năm 1997 (đầu quân về ES Cell International với cương vị trưởng phòng khoa học). Năm 2003, Jackie Ying, giáo sư trẻ nhất trong lịch sử Viện Công nghệ Massachusettes, rời trường để đến Singapore.

Đầu năm nay, thêm hai tên tuổi nữa: giáo sư Edward Holmes và vợ Judith Swain - hai trưởng khoa tại Đại học California (Mỹ) - từ bỏ mức lương 450.000 USD/năm để sang làm việc tại Singapore.

Thức thời chậm hơn Singapore nhưng hiện Ấn Độ đang nổi lên trong phát triển công nghệ sinh học cao. Lợi thế của Ấn Độ là sở hữu một số dân khổng lồ nên không cần phải đầu tư quá nhiều cho việc tuyển mộ nhân tài. Đạo Hindu không đề cập việc nghiên cứu tế bào gốc phôi người, ngoài ra Ấn Độ buộc phải phát triển tế bào gốc phôi người, bởi vì kỹ thuật này chính là chiếc phao duy nhất giúp Ấn Độ chữa được số bệnh nhân ngày càng nhiều trong tổng dân số ngày càng tăng của nước này.

Trong giai đoạn 2005-2007, Ấn Độ dự định sẽ thành lập các trung tâm nghiên cứu tế bào gốc ở ít nhất 24 thành phố trên toàn quốc gia. Trong năm 2005, đã có 1.000 phụ nữ tự nguyện hiến máu cuống rốn của con họ (một nguyên liệu để tạo ra tế bào gốc) và con số này tăng lên rất nhiều trong năm nay.

Ngoài Singapore và Ấn Độ, tại châu Á không thể không nhắc đến ba nước Đông Bắc Á là Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc. Nổi bật nhất trong ba nước này là Hàn Quốc với công trình nhân bản vô tính thành công một số động vật.

Trong năm 2001, Trung Quốc đã quyết định chi 36,3 triệu USD để thành lập một ngân hàng tế bào gốc, một trung tâm cấy ghép và một trung tâm phát triển kỹ thuật tế bào gốc. Cũng tương tự như Singapore, Trung Quốc chưa thể đào tạo những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này, do đó cách duy nhất là phải chiêu mộ nhân tài từ những trường đại học hàng đầu của Mỹ.

Dù đã có những tiến bộ nhất định, nhưng rất nhiều chuyên gia cho rằng phải còn rất lâu các nước châu Á mới có thể ứng dụng kỹ thuật tế bào gốc vào công tác chữa bệnh thật sự. Các chuyên gia nhận định các nước châu Á chỉ có thể phát triển trong giai đoạn ngắn chứ không thể đủ sức để đi một chặng đường dài hơi.

Xét về tiềm lực tài chính, số tiền của Chính phủ Singapore đưa ra (đã nói ở trên) hay như 27 triệu USD trong hai năm mà Chính phủ Hàn Quốc chi cho việc nghiên cứu tế bào gốc không thấm tháp gì so với số tiền 27 tỉ USD mà Viện Sức khỏe quốc gia của Mỹ chi ra mỗi năm.

Thứ hai về nhân sự. Hiện nay ở châu Á chưa có trường đại học nào có đủ khả năng tự đào tạo ra những nhà khoa học đủ đẳng cấp để có thể tạo đột phá trong lĩnh vực tế bào gốc. Ngay cả một nước có dân số đông nhất thế giới như Trung Quốc cũng phải nhập khẩu những nhà khoa học tại các trường đại học hàng đầu của Mỹ. Hay như Singapore - được mệnh danh là thiên đường của tế bào gốc - rất khó tìm được một nhân tài chỉ với vỏn vẹn 4,4 triệu dân.

Với tiềm lực hơn hẳn, những nước phương Tây đã bắt đầu rục rịch thực hiện những cuộc đầu tư lớn trong lĩnh vực nghiên cứu tế bào gốc. Chỉ riêng tại bang Califomia, thống đốc bang Amold Schwarzeneger đã hứa sẽ chi 150 triệu USD để nghiên cứu tế bào gốc. Tuy nhiên dự án bị trì hoãn do chưa được phép.

Một khi Mỹ không được phép nghiên cứu tế bào gốc, tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực này trên toàn thế giới có thể nói như rắn không đầu. Dù các nước châu Á có phát triển đến đâu đi nữa thì những phương tiện hiện đại nhất vẫn thuộc về nước Mỹ. Do không được phép của chính phủ, các nhà khoa học Mỹ vẫn đang loay hoay với 21 dòng tế bào gốc cũ nên vẫn chưa tạo được bất kỳ bước đột phá nào trong lĩnh vực này.

Đây là một sự lãng phí vô cùng đối với điều kiện cơ sở vật chất và nhân tài mà nước Mỹ đang sở hữu. Và trong tương lai không xa, khi mà kỹ thuật tế bào gốc không còn gặp phải những rào cản đạo đức - xã hội, Mỹ có lẽ sẽ lấy lại vị thế dẫn đầu ở ngành khoa học tiên tiến này.

(nguồn Tuổi trẻ)