Tiến hóa sinh học
Tiến hóa sinh học[sửa]
Những thay đổi qua hàng tỷ năm Khá lâu trước khi hiểu được cơ chế tiến hoá của sinh giới , nhiều người đã nhận thấy rằng sinh vật biến đổi theo thời gian và những cơ thể sống đã tiến hoá từ một loài nào đó ko còn tồn tại trên trái đất. Vào năm 1760, nhà tự nhiên học người Pháp_Count George-Louis Leclerc de Buffon (1707-1788)_đã viết “Lịch sử tự nhiên của muôn loài”, cuốn sách đã trình bày một cách rõ ràng về khả năng tiến hoá của sinh vật. Buffon đã quan sát xương chi của tất cả các loài động vật có vú ông nhận thấy có sự tương đồng ở nhiều điểm (hình 1.2). Ông cũng lưu ý một điểm: có những loài động vật có vú, như heo chẳng hạn, chân chúng có những ngón chẳng bao giờ chạm đất, và không có tác dụng gì. Buffon đã gặp khó khăn trong việc giải thích sự tồn tại của những ngón nhỏ vô ích này bởi quan niệm thông thường: Trái đất và tạo vật của nó được thượng đế tạo ra trong mối quan hệ với các dạng trước đó. Để giải thích cho những quan sát của mình, Buffon giả thiết rằng xương chi của các động vật có vú có thể đã được thừa hưởng từ một tổ tiên chung. Những con heo đó có thể có những ngón chân vô chức năng vì chúng được thừa hưởng từ tổ tiên đã có những ngón chân với đầy đủ hình dạng và chức năng.
Buffon đã không thể giải thích được những biến đổi diễn ra như thế nào nhưng một học trò của ông là Jean baptiste de Lamarck (1744-1829) đã đề xuất một cơ chế cho sự thay đổi. Ông cho rằng: ”Một giống sinh vật có thể thay đổi dần dần qua nhiều thế hệ vì thế hệ con cháu được thừa hưởng những đặc tính đã trở nên phổ biến, các đặc tính này sẽ càng hoàn thiện hơn trong quá trình phát triển của sinh vật, ngược lại các đặc tính không được tiếp nhận sẽ thu nhỏ lại và trở nên kém phát triển”. Ngày nay, các nhà khoa học không thừa nhận quá trình tiến hóa tuân theo cơ chế này. Tuy nhiên Lamarck đã để lại một dấu ấn quan trọng trong quá trình giải thích sự tiến hoá của sinh vật.
Thuyết tiến hóa của Darwin[sửa]
Năm 1858, theo xu hướng chung, các nhà sinh học nhanh chóng tiếp thu một lý thuyết tiến hóa mới được đề xuất độc lập bởi Charles Darwin và Alfred Russel Wallace. Vào thời gian này, những nhà địa chất đã thu thập được những bằng chứng về sự tồn tại và thay đổi củaTrái đất qua hàng triệu năm, chứ không chỉ dừng lại ở vài ngàn năm như mọi người đã tưởng. Các bạn sẽ học kỹ hơn về thuyết tiến hóa do chọn lọc tự nhiên ở chương 23, nhưng các bạn cần nắm được những ý cơ bản để có thể hiểu được nội dung của quyển sách này. Lý thuyết của Darwin bao gồm 3 quan sát thực nghiệm và 1 kết luận ông rút ra từ đó. Ba quan sát thực nghiệm :
• Tốc độ sinh sản của cơ thể sinh vật, mặc dù chậm, nhưng đủ lớn để có số lượng cá thể khổng lồ nếu tốc độ tử không nhanh bằng.
• Trong mỗi loài sinh vật, đều có sự khác nhau giữa các cá thể.
• Con cháu giống bố mẹ vì chúng đã thừa hưởng những đặc tính của của bố mẹ mình.
Từ những quan sát này Darwin đã rút ra kết luận: “Sự khác biệt giữa những cá thể ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và sinh sản của chúng. Một vài điểm đặc trưng làm gia tăng sự thích nghi của chúng sẽ được truyền lại cho các thế hệ tiếp theo” Darwin gọi sự thành công trong phương thức tồn tại và phát triển khác nhau của những cá thể là Chọn lọc tự nhiên. Ông gọi đó là ”sự truyền lại và thay đổi”.
Khi
sống
dưới
đáy
đại
dương
một
số
loài
cá
có
hình
thù
kỳ
lạ
để
phù
hợp
với
hoàn
cảnh
sống
đặc
biệt
Những
nhà
sinh
vật
bắt
đầu
có
sự
thay
đổi
một
chút
về
quan
niệm
chủ
đạo
so
với
1
thế
kỷ
trước.Họ
chấp
nhận
sự
lâu
dài
của
quá
trình
tiên
hoá
và
thừa
nhận
rằng
Chọn
lọc
tự
nhiên
là
1
quá
trình
các
sinh
vật
thích
nghi
với
môi
trường
sống.
Để
chấp
nhận
quan
niệm
này
cần
nhiều
thời
gian
vì
nó
đòi
hỏi
phải
từ
bỏ
nhiều
quan
niệm
của
thế
giới
quan
buổi
ban
đầu.
Trước
Darwin,
người
ta
xem
thế
giới
là
mới
mẻ
và
cơ
thể
sinh
vật
khi
được
thượng
đế
tạo
ra
đã
có
như
dạng
hiện
thời.
Đến
thời
Darwin,
thế
giới
được
xem
là
đã
cổ
xưa,
cả
trái
đất
lẫn
những
cư
dân
của
nó
đều
đã
thay
đổi
theo
thời
gian.
Những
dạng
tổ
tiên
rất
khác
so
với
những
dạng
tồn
tại
ngày
nay.
Những
cơ
thể
sống
tiến
hóa
những
đặc
điểm
riêng
của
chúng
vì
với
những
đặc
điểm
này
tổ
tiên
của
chúng
đã
tồn
tại
và
sinh
sản
tốt
hơn
với
những
đặc
điểm
khác.