Vắc xin ngừa ung thư cổ tử cung
Mỗi năm có khoảng gần 3 400 trường hợp ung thư cổ tử cung được chẩn đoán ở Pháp và có hơn 1000 phụ nữ tử vong vì chứng bệnh này. Mặc dù ung thư cổ tử cung ngày càng giảm dần ở các nước phát triển, nơi mà việc sàng lọc phát hiện bệnh đã được thực hiện khá lâu, căn bệnh này vẫn rất phổ biến ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Tại đây, tình hình ung thư cổ tử cung thực sự rất nghiêm trọng: theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), mỗi năm có trên 500 000 trường hợp mới mắc ung thư cổ tử cung và 288 000 trường hợp tử vong trên toàn thế giới trong đó 80% xuất hiện ở các nước đang phát triển. Ở các nước này, phụ nữ ít được theo dõi và ung thư cổ tử cung có triệu chứng nhẹ nhàng trong một thời gian khá dài trước khi bộc phát. Chính vì vậy những trường hợp ung thư cổ tử cung ở các nước đang phát triển thường được phát hiện vào giai đoạn muộn không thể hồi phục.
Mục lục
Vắc xin Gardasil[sửa]
Vắc xin mới được đưa ra thị trường có tên Gardasil được phát triển nhằm bảo vệ những phụ nữ trẻ chống lại các trường hợp nhiễm trùng gây nên do virus gây u nhú (papillomavirus HPV): đây là nhiễm trùng có thể tạo điều kiện làm dễ cho ung thư cổ tử cung phát triển.
Vắc xin chống papillomavirus đã được cho phép lưu thông ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác như Australia, Canada, New-Zealand, Brasil, Mexico…). Ngày 22 tháng 9 vừa qua, Cộng Đồng Châu Âu cũng đã cấp phép cho lưu hành vắc xin này. Vắc xin Gardasil của hãng dược phẩm Sanofi-Pasteur-Merck nhằm vào bốn type papillomavirus ở người là HPV6, HPV11, HPV16 và HPV18.
Bốn type virus này là những thành viên quan trọng của hơn 100 type papillomavirus đã được xác đinh hiện nay. Trong 100 type này thì có khoảng một phần ba có khả năng lây truyền qua đường tình dục. Các nhà khoa học xếp chúng thành hai nhóm chính là “nhóm có nguy cơ cao” và “nhóm có nguy cơ thấp” tùy theo khả năng gây bệnh của mỗi một type virus. Các virus thuộc type 6 và 11 có thể gây nên những tổn thương sùi ở đường sinh dục (không phải ung thư). Trong số những virus “nguy cơ cao” có type 16 và 18 (cũng như type 31 và 45 là đích tác động của một loại vắc xin khác của Sanofi nhưng chưa được lưu hành). Theo Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ thì các type virus này gây nên 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung. Ung thư cổ tử cung là một trong số rất ít ung thư mà nguyên nhân trực tiếp là do virus. Tuy nhiên không phải tất các các nhiễm trùng do papillomavirus ngay cả các type “nguy cơ cao” đều có thể gây nên ung thư cổ tử cung. Các nhà khoa học, những người đã và đang nghiên cứu các yếu tố và đồng yếu tố tạo điều kiện cho ung thư phát triển, cũng nhấn mạnh rằng phần lớn các nhiễm trùng do papillomavirus được xem là «nguy cơ cao» đều tự khỏi và không gây nên ung thư.
Các yếu tố nguy cơ[sửa]
Đâu là những yếu tố nguy cơ của ung thư cổ tử cung? Các nhà nghiên cứu khẳng định từ lâu rằng thuốc lá là một yếu tố nguy cơ hàng đầu. Tương tự thì việc sinh nhiều con, sinh hoạt tình dục không bảo vệ cũng như sinh hoạt tình dục với nhiều bạn tình khác nhau. Tuy nhiên việc sinh hoạt tình dục với nhiều người đàn ông khác nhau có phải là một yếu tố nguy cơ rõ ràng hay không thì vẫn còn là vấn đề đang được thảo luận. Việc sử dụng viên uống ngừa thai một thời gian dài (trên 10 năm) cũng làm tăng nguy cơ phát triển bệnh.
Việc theo dõi phụ khoa vẫn là biện pháp quan trọng nhất nhằm phát hiện sớm những biến đổi có khả năng đưa đến ung thư cổ tử cung: phương pháp thông dụng nhất là phết tế bào âm đạo nên được thực hiện mỗi ba năm một lần và nếu cần có thể làm thêm một số các xét nghiệm khác nhằm phát hiện kịp thời những thoái biến của niêm mạc cổ tử cung. Những biến đổi này có thể theo thời gian trở nên tiền ung thư. Một số bác sĩ còn tìm kiếm các biện pháp nhằm phục hồi tình trạng bình thường của niêm mạc tử cung. Trong trường hợp niêm mạc tử cung đã biến đổi ở giai đoạn muộn thì người phụ nữ có thể dùng các thuốc, hormone hoặc nghiệm pháp lạnh (cryotherapy) nhằm làm sạch những tổn thương. Trong trường hợp nặng nề hơn thì các phẫu thuật viên có thể thực hiện phẫu thuật cắt bỏ chóp của cổ tử cung. Tuy nhiên lý tưởng nhất vẫn là những biện pháp phòng bệnh như vệ sinh thân thể và vệ sinh sinh dục.
Sàng lọc phát hiện bệnh có tầm quan trọng đặc biệt[sửa]
Trong tài liệu đi kèm với sản phẩm vắc xin Gardasil của mình, nhà sản xuất nhấn mạnh rằng vắc xin «không thay thế các xét nghiệm sàng lọc thường quy vì không có một vắc xin nào có có thể đạt được hiệu quả 100%» và «Gardasil không bảo vệ người sử dụng chống lại các type virus không có trong vắc xin (!) hoặc những nhiễm trùng do HPV có từ trước».
Nếu phụ nữ đã tiếp xúc với virus thì hiệu quả của vắc xin rất thấp. Tương tự, hiệu quả của vắc xin cũng giảm dần theo tuổi và có khả năng nó cũng không thể đạt được hiểu quả mong muốn nếu người dùng có tình trạng suy giảm miễn dịch hoặc dùng các thuốc ức chế miễn dịch như cortisone và một số thuốc khác. Vắc xin không được khuyến cáo cho phụ nữ có thai. Đây là một vắc xin khá đắt tiền: gần 150 Euro một liều. Theo khuyến cáo thì một liệu trình cần ba mũi liều. Thời gian bảo vệ từ 4 đến 5 năm. Như vậy chi phí khoảng 2 triệu đồng Việt nam mỗi năm nếu tính theo thời giá hiện tại (tháng 11 năm 2006).
Đây là vắc xin ngừa ung thư đầu tiên được sản xuất đưa vào sử dụng rộng rãi.
Xem thêm[sửa]
- Ung thư cổ tử cung - bệnh do nhiễm virus
- Website của Đài Phát Thanh RFI
- Website của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO)
- Giải Nobel Y học năm 2008