Về tự do báo chí
Tự do báo chí không bao giờ có hại cho nhà cầm quyền, vì nhiều lẽ:
- Khi các báo được tự do xuất bản thì chỉ những tờ báo có dân chúng ủng hộ mới có thể sống, còn không thì chết hoặc sống ngắc ngoải, chẳng có ảnh hưởng gì đáng sợ.
- Một tờ báo đã sống, đương nhiên nó đại diện cho một tầng lớp dân chúng, nó diễn đạt tất cả hoài vọng và chí hướng của đám dân ấy. Nhà cầm quyền muốn cai trị được hoàn thiện, không thể bỏ qua những hoài vọng hoặc chí hướng của đám dân này. Tất nhiên cũng cần đọc hết tờ báo ấy.
- Một tờ báo nói vượt qua trình độ dân chúng, kêu gào dân chúng làm những việc tày trời không bao giờ dẫn đạo được dân chúng, sẽ bị dân chúng gạt qua bên mặt trận nghịch thù.
- Một tờ báo sống một cách mạnh mẽ, có ảnh hưởng trong dân chúng, đưa ra những vấn đề trái ngược với quyền lợi của nhà cầm quyền, cũng chẳng có hại cho cuộc trị an. Nó chỉ là một tiếng còi báo trước cho chánh phủ hãy thay đổi chính sách cai trị đi để chuộc lòng dân.
Căn cứ vào những lẽ đó, chúng tôi quả quyết rằng tự do báo chí không bao giờ có hại cho nhà cầm quyền. Có hại chăng là một chánh sách cai trị hẹp hòi, đi ngược với sự tiến hóa của dân chúng mà thôi.
Nguồn và tác giả[sửa]
- Báo DÂN TIẾN (số ra ngày 10/11/1938)
- Phan Đăng Lưu
Phan Đăng Lưu, (1902-1941) là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông sinh ra tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông tốt nghiệp Trường Canh nông và tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng) làm đến chức uỷ viên Tổng bộ. Năm 1928, Phan Đăng Lưu tham gia xuất bản “Quan hải tùng thư” tại Huế; ông giữ chức uỷ viên thường vụ của Tổng bộ Đảng Tân Việt. Ngày 15 tháng 12 cùng năm, ông sang Trung Quốc để liên lạc với Tổng bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Tháng 9/1929, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng và bị kết án tù khổ sai và đày đi Buôn Ma Thuột. Ra tù năm 1936, ông tham gia lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế. Trong thời gian này ông đã viết nhiều bài báo, tác phẩm với bút danh Tân Cương, Phi Bằng.
Năm 1938, ông được bầu uỷ viên ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông dương và uỷ viên thường vụ trung ương. Tháng 11/1939, ông tham dự Hội nghị thứ VI (Hội nghị quyết định nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế). Tháng 7/1940, ông thay mặt trung ương Đảng dự Hội nghị của xứ uỷ Nam Kì, thông qua đề cương chuẩn bị khởi nghĩa.
Tháng 11/1940, ông tham dự Hội nghị VII của Ban Chấp hành trung ương Đảng. Tại Hội nghị này, ông được bầu là Ủy viên Thường vụ và được phân công chỉ đạo phong trào ở Nam Kỳ. Trung ương Đảng đã cử ông vào Nam Kì để thông báo hoãn cuộc khởi nghĩa. Tháng 11/1940, ông bị bắt khi vừa về đến Sài Gòn do kế hoạch bị bại lộ. Ngày 18/8/1941, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị bắn ở Hóc Môn.