Bách Việt ... Sử vài dòng .
Kinh Thư , thiên Nghiêu điển chép :
....Bèn sai ông Hy Hoà Kính theo trời cao , làm lịch làm tượng về mặt trời ,mặt trăng và các vì sao , cẩn thận truyền cho dân về mùa . Vua sai ông Hy Trọng đến đóng ở Ngung di, gọi là Dương cốc ,cẩn thận xem từ lúc mặt trời mọc , định các việc làm về mùa xuân .Xem nhật trung tinh Điểu để định tháng trọng xuân.....
....lại sai ông Hy Thúc đến đóng ở Nam Giao ( theo ông Tăng tinh Lạp phải thêm vào 3 chữ :viết Minh đô ), định các việc làm mùa hạ , kính cẩn ghi ngày Hạ chí , ngày dài , sao Hỏa khi chập tối thấy ở đỉnh đầu , lấy đó để chính thức định trọng hạ .
....sai ông Hoà Trọng đến đóng ở miền tây gọi là Muội cốc , cẩn thận xem từ lúc mặt trời lặn định các việc làm mùa thu ,. xem tiêu trung tinh Hư để định tháng trọng thu .
....Lại sai ông Hoà Thúc đến đóng ở Sóc phương , gọi là U đô , xét các việc thay đổi mùa đông xem nhật đoản tinh Mão để chính thức định tháng trọng đông .
Ta thấy kinh Thư đã chỉ ra mốc giới ở 4 phương thời khởi thủy của Trung hoa là :
- Miền Ngung di – Dương cốc-mùa xuân , xem lúc mặt trời mọc tức buổi sáng ở phương Đông .
- Miền Nam giao –Minh đô – mùa Hạ .
- Miền tây là Muội cốc phía mặt trời lặn – mùa Thu .
- Miền Sóc phương –U đô – mùa Đông .
Về Phía đông của thời Khởi thủy Trung hoa người ta dễ dàng nhận ra là vùng Quảng Đông Trung quốc hiện nay với các dấu tích ngôn ngữ :
- Ngung di bảo lưu trong tên gọi thành Phiên Ngung là Quảng châu ngày nay .
- Dương cốc còn dấu vết ở Dương thành cũng ở Quảng châu ngày nay , Dương thành này chính là kinh đô thứ 3 của nhà Hạ .
Ở miền Nam giao ông Tăng tinh Lạp thêm vào bản gốc thiếu 3 chữ ....’ viết Minh đô ’ là hoàn toàn chính xác .
Tại đền thờ quốc tổ Hùng vương ở Phú thọ có câu đối :
Vế phải: “Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ”.
Vế trái: “Quang nhạc hiệp linh cố cung thành tụy miếu, tam giang khâm đái thượng triều tôn”.
Dịch nghĩa: “Sách trời đã định chính thống dựng kinh đô non sông Bách Việt đã có tổ. Núi sáng linh thiêng cố cung lập thành miếu, ba sông một dải hướng về nguồn”.
(Dịch và hiệu đính: Nguyễn Hữu Mùi, Đỗ Thị Hảo - Viện nghiên cứu hán nôm).
Như vậy đã đủ bằng cứ để khẳng định :
- đất phía bắc Việt nam ngày nay là 1 phần của cái nôi đã thai nghén Trung hoa từ thời Nghiêu – Thuấn và Bách Việt cũng chính là Trung Hoa cổ xưa .
- điều khẳng định quan trọng thứ 2 là : vua Hùng không chỉ là quốc tổ của riêng chi Lạc Việt mà là tổ tiên chung của cả khối Bách Việt tức Trung Hoa như quen gọi .
Đã xác định được 2 mốc giới Dương cốc và Minh đô , 2 mốc giới còn lại là Muội cốc và U đô chắc chắn cũng chỉ nằm trong phần đất liền kề với Bắc Việt nam và Quảng đông ; có phần chắc là chúng nằm loanh quanh ở vùng Quảng tây và Vân Nam ngày nay vì cái nền khoa học kĩ thuật lúc đó không cho phép có 1 lãnh thổ quốc gia rộng lớn hơn .
Thêm 1 bằng cứ nữa về lãnh thổ Trung hoa thuở ban đầu ,
Cổ sử Trung hoa viết :
Năm 2188 TCN, vua Khải (vua lập nên nhà Hạ) mất, con là Thái Khang lên thay. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan tâm việc chính sự. Hậu Nghệ thường đi theo phục vụ Thái Khang. Thấy Thái Khang bỏ triều chính, Hậu Nghệ nảy sinh ý định giành ngôi.
Một hôm Thái Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật điều quân từ nước Hữu Cùng sang tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh thành. Sau đó ông mang quân ra chặn bờ sông, phong toả lối về của Thái Khang.
Nghe tin kinh thành thất thủ, Thái Khang vội mang quân trở về, nhưng đến bờ sông đã thấy quân Hữu Cùng đông đảo chặn đánh. Thái Khang biết không địch nổi quân Hậu Nghệ bèn bỏ chạy sang nước chư hầu.
Ngoài thông tin nơi Thái Khang đi săn là đất LẠC ( sông Lạc ?) còn có những thông tin khác ;
Trong kho tàng văn học cổ Trung hoa có tích Hậu Nghệ - Hằng nga ....
Nguyên ở gò Đất cuối biển Đông có hang Dương. Nơi đây 10 con quạ vàng vâng lệnh Thượng Đế thay nhau ban ánh sáng cho vạn vật. Trên hang có cây Phù tang cao vút tận trời. Chín con quạ ở cành dưới, một con quạ ở cành trên. Từ ngàn xưa chỉ có một con ra khỏi biển hóa thành mặt trời, ngày ngày tháng tháng chiếu ánh sáng xuống mặt đất làm cho mưa hòa, gió thuận, vạn vật sinh hóa. Nhưng bất ngờ, một hôm bốn biển chuyển động, đất lở núi rung, cây Phù tang quay cuồng, vì 10 con quạ vàng tranh nhau xuất hiện một lượt.
Thế là nắng như lửa thiêu, đốt cháy cả vạn vật. Ban đầu, người ta còn ngâm mình dưới nước, núp trong hang núi ... nhưng rồi, đầm nước, dòng suối đều hóa thành những vạc nước sôi. Đất bằng bỗng chốc lửa dậy làm cho nhân dân điêu đứng, đời người biến thành địa ngục.
Trông thấy 10 con quạ vàng hoành hành dữ tợn làm cho nhà cửa tiêu tan, đồng ruộng khô cháy, Nghệ vừa hoảng kinh vừa tức giận, đem lòng thương xót sinh linh, và nghĩ đến mối liên hệ với thân mạng mình nên mang 10 mũi tên thần, giương cung 10 tạ lên quyết bắn 10 con quạ vàng cho tiêu ra tro bụi.
Nhưng ánh sáng rạng chói làm cho mắt đổ hào quang, không thể nhìn lên được. Nghệ bực tức, đứng tựa góc biển chân trời không do dự bắn luôn mấy phát. Những nơi có tên của Nghệ bắn tới thì nóng cháy nguội dần, ánh sáng êm dịu. Những lông cánh sắc màu của lũ quạ đua nhau rớt xuống. Một làn không khí mát mẻ bắt đầu.
Trông thấy chín con quạ chết, Nghệ lại muốn giương cung bắn nữa, nhưng Phùng Mông ngăn lại:
- Thưa thầy! Nếu thầy bắn chết cả thì vũ trụ sẽ trở nên đen tối mất.
Nghệ "à" một tiếng, hạ cung xuống.
Bấy giờ núi sông trở lại như xưa, cây cỏ tươi tốt. Đâu đâu cũng vang dậy tiếng hò reo hoan lạc. Nhân dân ca tụng công ơn vĩ đại của Hậu Nghệ, tôn thờ Nghệ là một vị cứu tinh, trọng quý Nghệ hơn mẹ cha. Sơn hào hải vị, họ đem dâng cho Nghệ dùng.
Hậu Nghệ lên làm Hoàng đế.
Hang Dương nơi Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời cứu dân ở đâu ?
Theo "Sơn hải kinh", trên hang Dương phía bắc nước Răng Đen có cây Phù tang to lớn sống ở dưới nước, 9 mặt trời ở cành dưới; 1 mặt trời ở cành trên. Theo sách của Hoài Nam Tử, đời vua Nghiêu, 10 mặt trời cùng mọc một lần làm cây cỏ khô héo, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời.
Những chi tiết ...đất Lạc , nước răng đen , gò đất cuối biển đông ( theo kinh Thư ...phía đông của 9 châu đất nhà Hạ là Biển ) đủ để xác định lãnh thổ nhà Hạ Trung hoa phần chính là đất Việt nam ngày nay .
Tới đây có thể khẳng định đất Việt Nam và vùng lân cận là cái nôi đã thai nghén người họ HÙNG hay Bách Việt cũng chính là Trung hoa theo cách gọi sai lầm hiện nay , Sự khẳng định này được kiện chứng bởi những kết qủa nghiên cứu mới nhất về gen di truyền người Bách Việt :
- Từ đất Bắc Đông dương nối đến Quảng đông Trung quốc là vùng hình thành và khởi phát dòng người mang gen Bách Việt sau đó đã phát tán ra 4 phương 8 hướng lên đến tận miền Hoa bắc và trở thành 1 trong những nguồn gen tạo nên người Hoa bắc , thậm chí dòng di truyền nhiễm sắc thể Y này còn len lỏi cả vào đặc điểm nhân thể người Ngũ Hồ ( chính xác phải gọi là Ngũ Man ).... Những bằng chứng trên là sự bổ chứng quan trọng cho những luận điểm trong sử thuyết họ HÙNG ; thực vậy theo chính sử Trung quốc thì Trung hoa lập quốc ở phía bắc Hoàng hà tới thời Thương thì vượt Hoàng hà , thời Chu vượt Trường giang xuống khai hóa phương nam ...liên tiếp sau đó từ trung cổ , trung đại tới cận đại dòng gen Hán tộc theo chân những tộc người chủng Mongoloid chỉ chảy 1 chiều luôn luôn từ bắc xuống nam ....như vậy cái khoảng 10% đặc điểm gen Bách Việt ( công bố của tiến sĩ Lý Huy tỷ lệ đột biến M119Hà Nam 11%, Sơn Đông 9%, Tứ Xuyên 7% ), trong cư dân nam Hoàng hà ngày nay ở đâu ra ? chưa kể sự đóng góp của người Hmông –Dao vào đặc điểm nhân thể và ngôn ngữ cũng như văn hóa nói chung ở vùng bắc Trung hoa vì tiến sĩ Lý Huy đã tùy tiện vô cớ loại người Hmông –Giao và những tộc người thuộc ngữ hệ Nam Á ra khỏi dòng Bách Việt trái hẳn với cổ thư trung hoa và những chứng cớ khác của dân tộc và ngôn ngữ học ; phải chăng là vì di truyền học ngày nay đã tìm ra sự vô cùng gần gũi giữa gen di truyền của người Hoa bắc và người Hmông- Dao ? ; di truyền gen Y (Y-haplogroup O) tiêu biểu cho người H'mông-Miên (O3a3, O3a4) rất giống với O3a5 của những người sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ Hán-Tạng . Trước đây hệ ngôn ngữ Hmong –giao được xếp loại như một bộ phận của ngữ hệ Hán-Tạng, và hiện vẫn tồn tại trong một số bảng phân loại của Trung Quốc, nhưng các nhà ngôn ngữ học phương Tây đã thống nhất xếp chúng thành một ngữ hệ riêng , gần đây nhiều nhà ngôn ngữ học xếp ngôn ngữ Hmông – Dao là 1 nhánh của ‘đại’ ngữ hệ Nam Thái , ngữ hệ này cùng với ngữ hệ Nam á bao trùm hết miền Bách Việt xưa ở nam Trung hoa và trọn Đông nam Á ngày nay .
Sử thuyết họ HÙNG cho là người Hmông-Dao cổ sử gọi là Man-Kinh là tộc người đã theo vua Bàn Canh vượt Trường giang lên phía bắc ngày nay lập nên nhà Ân Thương tức triều đại Thương thứ 2 ( ơn đồng nghĩa với nhị là số 2 trong số đếm của người Trung hoa ) qua bao biến cố lịch sử chà đi xát lại dành giật giữa 2 nhánh tộc người Mongoloid và Mongoloid phương nam người Hmông đã cộng cư và hòa huyết , giao lưu gen cũng như giao lưu hoà trộn văn hóa với rợ Ngũ Hồ ( Ngũ Man ) kết qủa tạo nên bộ mặt Hoa bắc ngày nay cả về nhân thể lẫn văn hóa văn minh .
Cố giáo sư Kim Định dựa trên bộ sưu tập về gốm cổ Trung hoa đã khẳng định ....: mái nhà vùng bắc Hoàng hà chỉ bắt đầu cong lên từ thời nhà Đường , nhà Đường theo sử thuyết họ HÙNG chính xác phải gọi là là nước Việt Thường , con người và văn hóa chủ đạo là văn hóa DƯƠNG VIỆT tức nước NGÔ xưa , tương tự : nhà TÙY là nước VIỆT TỦY một triều đại của người nước SỞ xưa ; tùy –tủy - sủy - sở nghĩa là nước chỉ là trò chơi chữ nghĩa ....chữ tác đánh chữ tộ mà thôi , 3 triều đại Bắc chu của vua Vũ văn Giác và Tùy - Đường là những triều đại người Bách Việt làm chủ Trung hoa đã tạo dòng chảy ngược của gen Bách Việt tới tận vùng đông ALTAI , triều Đường là triều duy nhất của Trung hoa làm chủ miền Đông bắc Trung hoa tới tận Triều tiên ngày nay . Phát hiện của cố giáo sư Kim Định là điều vô cùng quan trọng nó đã xác định vùng Sơn tây-Hà bắc đất gốc của Đông Hán ....không phải là Trung hoa đúng như sử thuyết họ HÙNG đã nói .
Đọc lại vài dòng trong lộ sử của La Bí đời Tống nói về kinh đô Lạc dương xưa :
“Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch ?), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu ” Từ cái nền ....” đầy dãy Man-Địch” đến thời Nguyên Mông thống trị thì thành phần cư dân Trung hoa bắc –nam đã khác biệt rõ nét đến độ Mông nguyên đã phân hẳn thành 2 loại người HÁN và NAM , vài trăm năm sau...đến ngày nay thì chỉ còn sấp xỉ 10% người mang gen Bách Việt ...thực là sự thụt giảm thê thảm .
....suy gẫm cho kỹ ta mới thấm hết ý câu “nước mất nhà tan” , gia đình là sự kết hợp giữa chồng với vợ ...nhà tan là cả cánh đàn ông tiêu vong ....ngoài những anh hùng hy sinh nơi chiến trường phần còn lại phải lao nhọc khổ sai chịu mọi sự hành hạ chết dần chết mòn , đau khổ nhất là bị cách ly với gia đình với vợ ....như thế dân tộc coi như không còn sự truyền giống .
Đế quốc Mãn Thanh được giới sử học cả thế giới coi là nhà cai trị hết sức khoan hoà với người Trung hoa bị trị ....( chỉ bắt người trung hoa cải tạo cách ăn cách mặc ...cạo đầu thắt bím cho giống người Mãn văn minh thôi ? ) vậy mà :
Người Hmông có câu ...’chỉ sợ rừng không đủ sâu , núi không đủ cao....’ rừng thiêng nước độc ...hầu như nắm chắc nửa phần chết nhưng còn cơ may bảo toàn nòi giống vẫn hơn là chịu sự hành hạ để rồi phải tuyệt nòi, bồng bế nhau lên ở non là vì thế ...còn lại biết bao người Hoa phải tha phương cầu thực ; thực ra ....tha phương thì có còn cầu thực thì không vì thời cận kim những người thoát chạy khỏi một Trung hoa đau thương ngoài tâm lực trí lực còn buộc phải có tài lực ....không có phương tiện vật chất thì không thể vượt ngàn dặm trùng khơi được , những người ra đi đều thuộc tầng lớp trên của xã hội ...họ đâu có nghèo đến nỗi phải ...”cầu thực “, dưới móng ngựa bắc phương người Trung hoa nếu không vào rừng không vượt biên phải ở lại sống chung với quân cướp nước thì chống chọi 1 cách tiêu cực nhưng không kém phần quyết liệt trước làn sóng đồng hóa của lũ ác ôn....dứt khoát không gả con gái cho người nước ngoài điều này dần dà trở thành đặc trưng văn hoá của người Hoa , đặc biệt là người Hoa nam ...
Những định luật toán học thì luôn đúng nhưng khi vận dụng những định luật đó để giải 1 bài toán cụ thể thì kết qủa có thể đúng có thể sai tương tự như thế những số liệu về phân tích di truyền học thì không sai nhưng khi vận dụng những kết qủa đó vào lĩnh vực lịch sử thì chưa chắc trúng nó tùy thuộc rất nhiều vào tính khách quan và sự trung thực của người thực hiện . Tiến sĩ Lý Huy trong bài nghiên cứu về gen người Bách việt (xin đọc bài đăng lại nguyên văn trong phần tham khảo của trang web này) đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi loại người Kinh –Mường, người bách bộc và đặc biệt là người Hmong-Dao ra khỏi cộng đồng Bách Việt dù ngay trong hình vẽ ( hình dưới) nơi phát sinh tập đoàn Bách Việt của ông ...kẻ dốt địa lý nhất cũng nhận ra phía tây là nơi cư trú của tiền nhân dân tộc Kinh và Mường....ông tiến sĩ họ Lý .... đã cố tình cắt bỏ 1 nửa người Bách Việt để có thể ép cho vừa vào khung lý thuyết ‘nhất sinh ....nhị phân ...’ do ông đẻ ra .
- Phần đậm ở giữa là nơi phát sinh khối Bách Việt ( ghi chú của người viết) hoàn toàn khớp với khoảng lặng 'diệu kỳ' của dấu gen M175 trên bản đồ hình thành và thiên di của loài người dựa trên cơ sở nhiễm sắc thể Y ( hình trích từ internet)
Khi cho Quảng đông là nơi phát sinh dòng Bách Việt sau đó mới toả ra những nơi khác ...là tác gỉa đã phạm sai lầm rất ấu trĩ ....lấy biên giới ngày nay làm ranh giới cho lịch sử ngàn vạn năm trước ....sở dĩ vậy là vì nhà ‘khoa học’ còn nặng óc ‘đại Hán’ đã không nuốt nổi sự thực ...tiền nhân người Việt cũng chính là tổ tiên người Bách Việt –Hoa nam nói chung và càng ngày người ta càng nhận rõ hơn chính người Bách Việt Hoa nam mới là chủ thể sáng tạo ra nền văn minh Trung hoa vì văn hóa văn minh Trung hoa mang trong lòng nó đầy dãy các nhân tố của 1 phương nam nóng và ẩm , sông và nước điều này khiến ta hiểu tại sao người Hoa phương nam vẫn nhận mình là ‘Thoòng dành’ tức Đường nhân hay Việt Thường nhân , Hán quốc –Hán tộc là của đám sử gia và vua quan nhà Hán-nước Hán còn ‘Thoòng Dành ’ là sự tự xưng của nhân dân ....mà nhân dân thì không bao giờ sai ...
Mọi người phải cảnh giác , cẩn thận xem xét những gì mà các nhà khoa học và Sử học Trung quốc công bố kẻo ...đã lầm lại chồng thêm sai .