Bình Ngô đại cáo (Bùi Kỷ dịch)
Bình
Ngô
đại
cáo của , người dịch: Bùi Kỷ |
Bản
dịch
của
Bùi
Kỷ
trong
Lam
Sơn
thực
lục/Cuốn
thứ
ba.
Xem thêm:
|
Tượng
mảng:
Việc
nhân-nghĩa
cốt
ở
yên
dân,
Quân
điếu-phạt
chỉ
vì
khử
bạo,
Như
nước
Việt
ta
từ
trước,
Vốn
xưng
văn-hiến
đã
lâu,
Sơn-hà
cương-vực
đã
chia,
Phong-tục
bắc
nam
cũng
khác.
Từ
Đinh,
Lê,
Lý,
Trần,
gây
nền
độc-lập,
Cùng
Hán,
Đường,
Tống,
Nguyên,
hùng-cứ
một
phương,
Dẫu
cường
nhược
có
lúc
khác
nhau,
Song
hào-kiệt
đời
nào
cũng
có.
Vậy
nên
Lưu
Cung
sợ
uy
mất
vía,
Triệu
Tiết
nghe
tiếng
giật
mình,
Cửa
Hàm-tử
giết
tươi
Toa
Đô,
Sông
Bạch-đằng
bắt
sống
Ô
Mã,
Xét
xem
cổ-tích,
Đã
có
minh-trưng,
Vừa
rồi
Vì
họ
Hồ
chính-sự
phiền-hà,
Để
trong
nước
nhân-dân
oán
bạn,
Quân
cường
Minh
đã
thừa-cơ
tứ
ngược,
Bọn
gian-tà
còn
bán
nước
cầu
vinh,
Nướng
dân
đen
trên
ngọn
lửa
hung-tàn,
Vùi
con
đỏ
xuống
dưới
hầm
tai-vạ.
Chước
dối
đủ
muôn
nghìn
khoé,
Ác
chứa
ngót
hai
mươi
năm.
Bại
nhân-nghĩa
nát
cả
càn-khôn,
Nặng
khóa-liễm
vét
không
sơn-trạch
Nào
lên
rừng
đào
mỏ,
nào
xuống
bể
mò
châu,
Nào
hố
bẫy
hươu
đen,
nào
lưới
dò
chim
trả,
Tàn-hại
cả
côn-trùng
thảo-mộc,
Nheo-nhóc
thay!
quan
quả
diên
liên
Kẻ
há
miệng,
đứa
nhe
răng,
máu
mỡ
bấy!
no-nê
chưa
chán,
Nay
xây
nhà,
mai
đắp
đất,
chân
tay
nào
phục-dịch
cho
vừa,
Nặng-nề
về
những
nỗi
phu-phen,
Bắt-bớ
mất
cả
nghề
canh-cửi.
Độc-ác
thay!
trúc
rừng
không
ghi
hết
tội,
Dơ-bẩn
thay!
nước
bể
khôn
rửa
sạch
mùi,
Lẽ
nào
trời
đất
tha
cho,
Ai
bảo
thần-nhân
nhịn
được.
Ta
đây:
Núi
Lam-sơn
dấy
nghĩa,
Chốn
hoang-dã
nương
mình,
Ngắm
non
sông
căm
nổi
thế
thù,
Thề
sống
chết
cùng
quân
nghịch-tặc,
Đau
lòng
nhức
óc,
chốc
là
mười
mấy
nắng
mưa,
Nếm
mật
nằm
gai,
há
phải
một
hai
sớm
tối,
Quên
ăn
vì
giận,
sách
lược-thao
suy-xét
đã
tinh,
Ngẫm
trước
đến
nay,
lẽ
hưng-phế
đắn-đo
càng
kỹ.
Những
trằn-trọc
trong
cơn
mộng-mị,
Chỉ
băn-khoăn
một
nỗi
đồ
hồi.
Vừa
khi
cờ
nghĩa
dấy
lên,
Chính
lúc
quân
thù
đang
thịnh.
Lại
ngặt
vì:
Tuấn-kiệt
như
sao
buổi
sớm,
Nhân-tài
như
lá
mùa
thu,
Việc
bôn-tẩu
thiếu
kẻ
đỡ-đần,
Nơi
duy
ác
hiếm
người
bàn-bạc.
Đôi
phen
vùng-vẫy,
vẫn
đăm-đăm
con
mắt
dục
đông
Mấy
thủa
đợi
chờ,
luống
đằng-đẵng
cỗ
xe
hư-tả,
Thế
mà
trông
người,
người
càng
vắng
ngắt,
vẫn
mịt-mù
như
kẻ
vọng
dương,
Thế
mà
tự
ta,
ta
phải
lo
toan,
thêm
vội-vã
như
khi
chửng
nịch,
Phần
thì
giận
hung-đồ
ngang-dọc,
Phần
thì
lo
quốc-bộ
khó-khăn,
Khi
Linh-sơn
lương
hết
mấy
tuần,
Khi
Khôi-huyện
quân
không
một
đội,
Có
lẽ
trời
muốn
trao
cho
gánh
nặng,
bắt
trải
qua
bách
chiết
thiên
ma,
Cho
nên
ta
cố
gắng
gan
bền,
chấp
hết
cả
nhất
sinh
thập
tử.
Múa
đầu
gậy
ngọn
cờ
phất-phới,
ngóng
vân-nghê
bốn
cõi
đan
hồ,
Mở
tiệc
quân
chén
rượu
ngọt-ngào,
khắp
tướng-sĩ
một
lòng
phụ-tử.
Thế
giặc
mạnh,
ta
yếu
mà
ta
địch
nổi,
Quân
giặc
nhiều,
ta
ít
mà
ta
được
luôn.
Dọn
hay:
Đem
đại
nghĩa
để
thắng
hung-tàn,
Lấy
chí
nhân
mà
thay
cường-bạo.
Trận
Bồ-đằng
sấm
vang
sét
dậy,
Miền
Trà-lân
trúc
phá
tro
bay,
Sĩ-khí
đã
hăng,
Quân-thanh
càng
mạnh,
Trần
Trí,
Sơn
Thọ,
mất
vía
chạy
tan.
Phương
Chính,
Quý
An
tìm
đường
trốn-tránh.
Đánh
Tây-kinh
phá
tan
thế
giặc.
Lấy
Đông-đô
thu
lại
cõi
xưa,
Dưới
Ninh-kiều
máu
chảy
thành
sông,
Bến
Tụy-động
xác
đầy
ngoài
nội.
Trần
Hiệp
đã
thiệt
mạng,
Lý
Lương
lại
phơi
thây.
Vương
Thông
hết
cấp
lo-lường,
Mã
Anh
khôn
đường
cứu-đỡ
Nó
đã
trí
cùng
lực
kiệt,
bó
tay
không
biết
tính
sao,
Ta
đây
mưu
phạt
tâm
công,
chẳng
đánh
mà
người
chịu
khuất.
Tưởng
nó
đã
thay
lòng
đổi
dạ,
biết
lẽ
tới
lui,
Ngờ
đâu
còn
kiếm
kế
tìm
phương,
gây
mầm
tội-nghiệt.
Cậy
mình
là
phải,
chỉ
quen
đổ
vạ
cho
người,
Tham
công
một
thời,
chẳng
bỏ
bày
trò
dở-duốc.
Đến
nỗi
đứa
trẻ
con
như
Tuyên-đức,
nhàm
võ
không
thôi.
Lại
sai
đồ
nhút-nhát
như
Thạnh,
Thăng
đem
đầu
chữa
cháy.
Năm
Đinh-mùi
tháng
chín,
Liễu
Thăng
tự
Khâu-ôn
tiến
sang[1],
Mộc
Thạnh
tự
Vân-nam
kéo
đến.
Ta
đã
điều
binh
thủ
hiểm,
để
ngăn
lối
Bắc-quân,
Ta
lại
sai
tướng
chẹn
ngang,
để
tuyệt
đường
lương-đạo.
Mười-tám,
Liễu
Thăng
thua
ở
Chi-lăng[2],
Hai-mươi,
Liễu
Thăng
chết
ở
Mã-yên,
Hai-mươi-lăm,
Lương
Minh
trận
vong,
Hai-mươi-tám,
Lý
Khánh
tự
vẫn,
Lưỡi
dao
ta
đang
sắc,
Ngọn
giáo
giặc
phải
lùi,
Lại
thêm
quân
bốn
mặt
vây
thành
Hẹn
đến
rằm
tháng
mười
diệt
tặc.
Sĩ-tốt
ra
oai
tì-hổ,
Thần-thứ
đủ
mặt
trảo
nha.
Gươm
mài
đá,
đá
núi
cũng
mòn,
Voi
uống
nước,
nước
sông
phải
cạn.
Đánh
một
trận
sạch
không
kinh-ngạc.
Đánh
hai
trận
tan-tác
chim-muông.
Cơn
gió
to
trút
sạch
lá
khô,
Tổ
kiến
hổng
sụt
toang
đê
cũ.
Thôi
Tụ
phải
quỳ
mà
xin
lỗi,
Hoàng
Phúc
tự
trói
để
hàng.
Lạng-giang,
Lạng-sơn,
thây
chất
đầy
đồng,
Xương-giang,
Bình-than,
máu
trôi
đỏ
nước.
Ghê-gớm
thay!
sắc
phong-vân
phải
đổi,
Thảm-đạm
thay!
sáng
nhật-nguyệt
phải
mờ.
Binh
Vân-nam
nghẻn
ở
Lê-hoa,
sợ
mà
mất
mật.
Quân
Mộc
Thạnh
tan
chưng
Cần-trạm,
chạy
để
thoát
thân,
Suối
máu
Lãnh-câu,
nước
sông
rền-rĩ,
Thành
xương
Đan-xá,
cỏ
nội
đầm-đìa.
Hai
mặt
cứu-binh,
cắm
đầu
trốn
chạy,
Các
thành
cùng
khấu,
cởi
giáp
xuống
đầu.
Bắt
tướng
giặc
mang
về,
nó
đã
vẫy
đuôi
phục
tội,
Thể
lòng
trời
bất
sát,
ta
cũng
mở
đường
hiếu
sinh.
Mã
Kỳ,
Phương
Chính,
cấp
cho
năm
trăm
chiếc
thuyền,
ra
đến
bể
chưa
thôi
trống
ngực,
Vương
Thông,
Mã
Anh,
phát
cho
vài
nghìn
cỗ
ngựa,
về
đến
Tàu
còn
đổ
mồ-hôi.
Nó
đã
sợ
chết
cầu
hòa,
mở
lòng
thú-phục,
Ta
muốn
toàn
quân
làm
cốt,
cả
nước
nghỉ-ngơi.
Thế
mới
là
mưu-kế
thật
khôn,
Vả
lại
suốt
xưa
nay
chưa
có.
Giang-san
từ
đây
mở
mặt,
Xã-tắc
từ
đây
vững-bền.
Nhất-nguyệt
hối
mà
lại
minh,
Kiền-khôn
bĩ
mà
lại
thái.
Nền
vạn
thế
xây
nên
chăn-chắn.
Thẹn
nghìn
thu
rửa
sạch
làu-làu.
Thế
là
nhờ
trời
đất
tổ-tông
khôn-thiêng
giúp-đỡ
cho
nước
ta
vậy.
Than
ôi!
Vẫy
vùng
một
mảnh
nhung-y,
nên
công
đại
định.
Phẳng-lặng
bốn
bề
thái-vũ,
mở
hội
vĩnh-thanh,
Bá
cáo
xa
gần,
Ngỏ
cùng
nghe
biết.
Chú thích cuối trang[sửa]
- ↑ Tiếng sang với cháy không theo niêm.
- ↑ Tiếng lăng với đạo không theo niêm. Hai chỗ này là tự-sự có thể dùng lối tản hành, không theo niêm cũng được.
Bản dịch này có thể có thông tin cấp phép khác với văn kiện gốc. Tình trạng bản dịch áp dụng cho phiên bản này. | ||||
Bản gốc: |
|
|||
Bản dịch: |
|