Đại
thiên
hành
hóa
hoàng
thượng
nhược
viết:
Cái
văn:
Nhân
nghĩa
chi
cử,
yếu
tại
an
dân,
Điếu
phạt
chi
sư,
mạc
tiên
khử
bạo.
Duy
ngã
Đại
Việt
chi
quốc,
Thực
vi
văn
hiến
chi
bang.
Sơn
xuyên
chi
phong
vực
ký
thù,
Nam
bắc
chi
phong
tục
diệc
dị.
Tự
Triệu
Đinh
Lý
Trần
chi
triệu
tạo
ngã
quốc,[1]
Dữ
Hán
Đường
Tống
Nguyên
nhi
các
đế
nhất
phương.
Tuy
cường
nhược
thì
hữu
bất
đồng,
Nhi
hào
kiệt
thế
vị
thường
phạp.
Cố
Lưu
Cung
tham
công
dĩ
thủ
bại,
Nhi
Triệu
Tiết
hiếu
đại
dĩ
xúc
vong.
Toa
Đô
ký
cầm
ư
Hàm
Tử
quan,
Ô
Mã
hựu
ế
ư
Bạch
Đằng
hải.[2]
Kê
chư
vãng
cổ,
Quyết
hữu
minh
trưng.
Khoảnh
nhân
Hồ
chính
chi
phiền
hà,
Trí
sử
nhân
tâm
chi
oán
bạn.
Cuồng
Minh
tứ
khích,
nhân
dĩ
độc
ngã
dân;
Nguỵ
đảng
hoài
gian,
cánh
dĩ
mãi
ngã
quốc.
Hân
thương
sinh
ư
ngược
diệm,
Hãm
xích
tử
ư
họa
khanh.
Khi
thiên
võng
dân,
quỷ
kế
cái
thiên
vạn
trạng;
Liên
binh
kết
hấn,
nẫm
ác
đãi
nhị
thập
niên.
Bại
nghĩa
thương
nhân,
càn
khôn
ky
hồ
dục
tức;
Trọng
khoa
hậu
liễm,
sơn
trạch
mỹ
hữu
kiết
di.
Khai
kim
trường,
tắc
mạo
lam
chướng
nhi
phủ
sơn
đào
sa,
Thái
minh
châu,
tắc
xúc
giao
long
nhi
hoàn
yêu
thộn
hải.
Nhiễu
dân
thiết
huyền
lộc
chi
hãm
tịnh,
Điễn
vật
chức
thúy
cầm
chi
võng
la.
Côn
trùng
thảo
mộc
giai
bất
đắc
dĩ
toại
kỳ
sinh,
Quan
quả
điên
liên
câu
bất
hoạch
dĩ
an
kỳ
sở.
Tuấn
sinh
linh
chi
huyết
dĩ
nhuận
kiệt
hiệt
chi
vẫn
nha;
Cực
thổ
mộc
chi
công
dĩ
sùng
công
tư
chi
giải
vũ.
Châu
lý
chi
chinh
dao
trọng
khốn,
Lư
diêm
chi
trữ
trục
giai
không.
Quyết
Đông
Hải
chi
thủy
bất
túc
dĩ
trạc
kỳ
ô,
Khánh
Nam
Sơn
chi
trúc
bất
túc
dĩ
thư
kỳ
ác.
Thần
dân
chi
sở
cộng
phẫn,
Thiên
địa
chi
sở
bất
dung.
Dư:
Phấn
tích
Lam
Sơn,
Thê
thân
hoang
dã.
Niệm
thế
thù
khởi
khả
cộng
đái,
Thệ
nghịch
tặc
nan
dữ
câu
sinh.
Thống
tâm
tật
thủ
giả
thùy
thập
dư
niên,
Thường
đảm
ngọa
tân
giả
cái
phi
nhất
nhật.
Phát
phẫn
vong
thực,
mỗi
nghiên
đàm
thao
lược
chi
thư,
Tức
cổ
nghiệm
kim,
tế
suy
cứu
hưng
vong
chi
lý.
Đồ
hồi
chi
chí
Ngộ
mị
bất
vong.
Đương
nghĩa
kỳ
sơ
khởi
chi
thì,
Chính
tặc
thế
phương
trương
chi
nhật.
Nại
dĩ:
Nhân
tài
thu
diệp,
Tuấn
kiệt
thần
tinh.
Bôn
tẩu
tiền
hậu
giả
ký
phạp
kỳ
nhân,
Mưu
mô
duy
ác
giả
hựu
quả
kỳ
trợ.
Đặc
dĩ
cứu
dân
chi
niệm,
mỗi
uất
uất
nhi
dục
đông;
Cố
ư
đãi
hiền
chi
xa,
thường
cấp
cấp
dĩ
hư
tả.
Nhiên
kỳ:
Đắc
nhân
chi
hiệu
mang
nhược
vọng
dương,
Do
kỉ
chi
thành
thậm
ư
chửng
nịch.
Phẫn
hung
đồ
chi
vị
diệt,
Niệm
quốc
bộ
chi
tao
truân.
Linh
Sơn
chi
thực
tận
kiêm
tuần,
Khôi
Huyện
chi
chúng
vô
nhất
lữ.
Cái
thiên
dục
khốn
ngã
dĩ
giáng
quyết
nhiệm,
Cố
dữ
ích
lệ
chí
dĩ
tế
vu
nan.
Yết
can
vi
kỳ,
manh
lệ
chi
đồ
tứ
tập;
Đầu
giao
hưởng
sĩ,
phụ
tử
chi
binh
nhất
tâm.
Dĩ
nhược
chế
cường,
hoặc
công
nhân
chi
bất
bị;
Dĩ
quả
địch
chúng,
thường
thiết
phục
dĩ
xuất
kỳ.
Tốt
năng:
Dĩ
đại
nghĩa
nhi
thắng
hung
tàn,
Dĩ
chí
nhân
nhi
dịch
cường
bạo.
Bồ
Đằng
chi
đình
khu
điện
xế,
Trà
Lân
chi
trúc
phá
khôi
phi.
Sĩ
khí
dĩ
chi
ích
tăng,
Quân
thanh
dĩ
chi
đại
chấn.
Trần
Trí,
Sơn
Thọ
văn
phong
nhi
sỉ
phách,
Lý
An,
Phương
Chính
giả
tức
dĩ
thâu
sinh.
Thừa
thắng
trường
khu,
Tây
Kinh
ký
vị
ngã
hữu;
Tuyển
binh
tiến
thủ,
Đông
Đô
tận
phục
cựu
cương.
Ninh
Kiều
chi
huyết
thành
xuyên,
lưu
tinh
vạn
lý;
Tốt
Động
chi
thi
tích
dã,
di
xú
thiên
niên.
Trần
Hiệp
tặc
chi
phúc
tâm,
ký
kiêu
kỳ
thủ;
Lý
Lượng
tặc
chi
gian
đố,
hựu
bạo
quyết
thi.
Vương
Thông
lý
loạn
nhi
phần
giả
ích
phần,
Mã
Anh
cứu
đấu
nhi
nộ
giả
ích
nộ.
Bỉ
trí
cùng
nhi
lực
tận,
thúc
thủ
đãi
vong;
Ngã
mưu
phạt
nhi
tâm
công,
bất
chiến
tự
khuất.
Vị
bỉ
tất
dị
tâm
nhi
cải
lự,
Khởi
ý
phục
tác
nghiệt
dĩ
tốc
cô.
Chấp
nhất
kỷ
chi
kiến,
dĩ
giá
họa
ư
tha
nhân,
Tham
nhất
thì
chi
công,
dĩ
di
tiếu
ư
thiên
hạ.
Toại
linh
Tuyên
Đức
chi
giảo
đồng,
độc
binh
vô
yếm;
Nhưng
mệnh
Thạnh
Thăng
chi
nọa
tướng,
dĩ
du
cứu
phần.
Đinh
vị
cửu
nguyệt
Liễu
Thăng
toại
dẫn
binh
do
Khâu
Ôn
nhi
tiến,
Bản
niên
thập
nguyệt
Mộc
Thạnh
hựu
phân
đồ
tự
Vân
Nam
nhi
lai.
Dư
tiền
ký
tuyển
binh
tái
hiểm
dĩ
tồi
kỳ
phong,
Dư
hậu
tái
điều
binh
tiệt
lộ
dĩ
đoạn
kỳ
thực.
Bản
nguyệt
thập
bát
nhật
Liễu
Thăng
vị
ngã
quân
sở
công,
kế
trụy
ư
Chi
Lăng
chi
dã;
Bản
nguyệt
nhị
thập
nhật
Liễu
Thăng
hựu
vị
ngã
quân
sở
bại,
thân
tử
ư
Mã
Yên
chi
sơn.
Nhị
thập
ngũ
nhật
Bảo
Định
bá
Lương
Minh
trận
hãm
nhi
táng
khu,
Nhị
thập
bát
nhật
Thượng
thư
Lý
Khánh
kế
cùng
nhi
vẫn
thủ.
Ngã
toại
nghênh
nhận
nhi
giải,
Bỉ
tự
đảo
qua
tương
công.
Kế
nhi
tứ
diện
thiêm
binh
dĩ
bao
vi,
Kỳ
dĩ
thập
nguyệt
trung
tuần
nhi
điễn
diệt.
Viên
tuyển
tỳ
hưu
chi
sĩ,
Thân
mệnh
trảo
nha
chi
thần.
Ẩm
tượng
nhi
hà
thủy
càn,
Ma
đao
nhi
sơn
thạch
khuyết.
Nhất
cổ
nhi
kình
khô
ngạc
đoạn,
Tái
cổ
nhi
điểu
tán
quân
kinh.
Quyết
hội
nghĩ
ư
băng
đê,
Chấn
cương
phong
ư
cảo
diệp.
Đô
đốc
Thôi
Tụ
tất
hành
nhi
tống
khoản,
Thượng
thư
Hoàng
Phúc
diện
phược
dĩ
tựu
cầm.
Cương
thi
tái
Lạng
Giang,
Lạng
Sơn
chi
đồ,
Chiến
huyết
xích
Xương
Giang,
Bình
Than
chi
thủy.
Phong
vân
vị
chi
biến
sắc,
Nhật
nguyệt
thảm
dĩ
vô
quang.
Kỳ
Vân
Nam
binh
vị
ngã
quân
sở
ách
ư
Lê
Hoa,
tự
đỗng
nghi
hư
hạt
nhi
tiên
dĩ
phá
phủ;
Kỳ
Mộc
Thạnh
chúng
văn
Liễu
Thăng
đại
bại
ư
Cần
Trạm,
toại
lận
tạ
bôn
hội
nhi
cận
đắc
thoát
thân.
Lãnh
Câu
chi
huyết
chử
phiêu,
giang
thủy
vị
chi
ô
yết;
Đan
Xá
chi
thi
sơn
tích,
dã
thảo
vị
chi
ân
hồng.
Lưỡng
lộ
cứu
binh,
ký
bất
toàn
chủng
nhi
câu
bại,
Các
thành
cùng
khấu,
diệc
tương
giải
giáp
dĩ
xuất
hàng.
Tặc
thủ
thành
cầm,
bỉ
ký
trạo
ngạ
hổ
khất
liên
chi
vĩ;
Thần
võ
bất
sát,
dư
diệc
thể
thượng
đế
hiếu
sinh
chi
tâm.
Tham
tướng
Phương
Chính,
Nội
quan
Mã
Kỳ,
tiên
cấp
hạm
ngũ
bách
dư
sưu,
ký
độ
hải
nhi
do
thả
hồn
phi
phách
tán;
Tổng
binh
Vương
Thông,
Tham
chính
Mã
Anh,
hựu
cấp
mã
sổ
thiên
dư
thất,
dĩ
hoàn
quốc
nhi
ích
tự
cổ
lật
tâm
kinh.
Bỉ
ký
uý
tử
tham
sinh,
nhi
tu
hảo
hữu
thành;
Dư
dĩ
toàn
quân
vi
thượng,
nhi
dục
dân
chi
đắc
tức.
Phi
duy
mưu
kế
chi
cực
kỳ
thâm
viễn,
Cái
diệc
cổ
kim
chi
sở
vị
kiến
văn.
Xã
tắc
dĩ
chi
điện
an,
Sơn
xuyên
dĩ
chi
cải
quán.
Càn
khôn
ký
bĩ
nhi
phục
thái,
Nhật
nguyệt
ký
hối
nhi
phục
minh.
Vu
dĩ
khai
vạn
thế
thái
bình
chi
cơ,
Vu
dĩ
tuyết
thiên
cổ
vô
cùng
chi
sỉ.
Thị
do
thiên
địa
tổ
tông
chi
linh,
hữu
dĩ
mặc
tương
âm
hựu,
nhi
trí
nhiên
dã.
Ô
hô!
Nhất
nhung
đại
định,
ngật
thành
vô
cạnh
chi
công;
Tứ
hải
vĩnh
thanh,
đản
bố
duy
tân
chi
cáo.
Bá
cáo
hà
nhĩ,
Hàm
sử
văn
tri.
|
Thay
trời
hành
hoá,
hoàng
thượng
truyền
rằng.
Từng
nghe:
Việc
nhân
nghĩa
cốt
ở
yên
dân
Quân
điếu
phạt
trước
lo
trừ
bạo
Như
nước
Đại
Việt
ta
từ
trước
Vốn
xưng
nền
văn
hiến
đã
lâu
Núi
sông
bờ
cõi
đã
chia
Phong
tục
Bắc
Nam
cũng
khác
Từ
Triệu,
Đinh,
Lý,
Trần
bao
đời
xây
nền
độc
lập
Cùng
Hán,
Đường,
Tống,
Nguyên
mỗi
bên
hùng
cứ
một
phương
Tuy
mạnh
yếu
có
lúc
khác
nhau
Song
hào
kiệt
thời
nào
cũng
có.
Cho
nên:
Lưu
Cung
tham
công
nên
thất
bại,
Triệu
Tiết
thích
lớn
phải
tiêu
vong,
Cửa
Hàm
tử
bắt
sống
Toa
Đô
Sông
Bạch
Đằng
giết
tươi
Ô
Mã
Việc
xưa
xem
xét,
Chứng
cớ
còn
ghi.
Vừa
rồi:
Nhân
họ
Hồ
chính
sự
phiền
hà,
Để
trong
nước
lòng
dân
oán
hận.
Quân
cuồng
Minh
thừa
cơ
gây
hoạ,
Bọn
gian
tà
bán
nước
cầu
vinh.
Nướng
dân
đen
trên
ngọn
lửa
hung
tàn,
Vùi
con
đỏ
xuống
dưới
hầm
tai
vạ.
Dối
trời
lừa
dân
đủ
muôn
ngàn
kế,
Gây
binh
kết
oán
trải
hai
mươi
năm.
Bại
nhân
nghĩa
nát
cả
đất
trời,
Nặng
thuế
khoá
sạch
không
đầm
núi.
Người
bị
ép
xuống
biển
dòng
lưng
mò
ngọc,
ngán
thay
cá
mập
thuồng
luồng.
Kẻ
bị
đem
vào
núi
đãi
cát
tìm
vàng,
khốn
nỗi
rừng
sâu,
nước
độc.
Vét
sản
vật,
bắt
chim
trả,
chốn
chốn
lưới
chăng,
Nhiễu
nhân
dân,
bẫy
hươu
đen,
nơi
nơi
cạm
đặt.
Tàn
hại
cả
giống
côn
trùng
cây
cỏ,
Nheo
nhóc
thay
kẻ
goá
bụa
khốn
cùng.
Thằng
há
miệng,
đứa
nhe
răng,
máu
mỡ
bấy
no
nê
chưa
chán ;
Nay
xây
nhà,
mai
đắp
đất,
chân
tay
nào
phục
dịch
cho
vừa.
Nặng
nề
những
núi
phu
phen,
Tan
tác
cả
nghề
canh
cửi.
Độc
ác
thay,
trúc
Nam
Sơn
không
ghi
hết
tội,
Dơ
bẩn
thay,
nước
Đông
Hải
không
rửa
sạch
mùi.
Lẽ
nào
trời
đất
dung
tha,
Ai
bảo
thần
nhân
chịu
được?
Ta
đây:
Núi
Lam
sơn
dấy
nghĩa
Chốn
hoang
dã
nương
mình
Ngẫm
thù
lớn
há
đội
trời
chung
Căm
giặc
nước
thề
không
cùng
sống
Đau
lòng
nhức
óc,
chốc
đà
mười
mấy
năm
trời
Nếm
mật
nằm
gai,
há
phải
một
hai
sớm
tối.
Quên
ăn
vì
giận,
sách
lược
thao
suy
xét
đã
tinh,
Ngẫm
trước
đến
nay,
lẽ
hưng
phế
đắn
đo
càng
kỹ.
Những
trằn
trọc
trong
cơn
mộng
mị,
Chỉ
băn
khoăn
một
nỗi
đồ
hồi
Vừa
khi
cờ
nghĩa
dấy
lên,
Chính
lúc
quân
thù
đang
mạnh.
Lại
ngặt
vì:
Tuấn
kiệt
như
sao
buổi
sớm,
Nhân
tài
như
lá
mùa
thu,
Việc
bôn
tẩu
thiếu
kẻ
đỡ
đần,
Nơi
duy
ác
hiếm
người
bàn
bạc,
Tấm
lòng
cứu
nước,
vẫn
đăm
đăm
muốn
tiến
về
Đông,
Cỗ
xe
cầu
hiền,
thường
chăm
chắm
còn
dành
phía
tả.
Thế
mà:
Trông
người,
người
càng
vắng
bóng,
mịt
mù
như
nhìn
chốn
bể
khơi.
Tự
ta,
ta
phải
dốc
lòng,
vội
vã
hơn
cứu
người
chết
đuối.
Phần
vì
giận
quân
thù
ngang
dọc,
Phần
vì
lo
vận
nước
khó
khăn,
Khi
Linh
Sơn
lương
hết
mấy
tuần,
Lúc
Khôi
Huyện
quân
không
một
đội.
Trời
thử
lòng
trao
cho
mệnh
lớn
Ta
gắng
trí
khắc
phục
gian
nan.
Nhân
dân
bốn
cõi
một
nhà,
dựng
cần
trúc
ngọn
cờ
phấp
phới
Tướng
sĩ
một
lòng
phụ
tử,
hoà
nước
sông
chén
rượu
ngọt
ngào.
Thế
trận
xuất
kỳ,
lấy
yếu
chống
mạnh,
Dùng
quân
mai
phục,
lấy
ít
địch
nhiều.
Trọn
hay:
Đem
đại
nghĩa
để
thắng
hung
tàn,
Lấy
chí
nhân
để
thay
cường
bạo.
Trận
Bồ
Đằng
sấm
vang
chớp
giật,
Miền
Trà
Lân
trúc
chẻ
tro
bay.
Sĩ
khí
đã
hăng
Quân
thanh
càng
mạnh.
Trần
Trí,
Sơn
Thọ
nghe
hơi
mà
mất
vía,
Lý
An,
Phương
Chính,
nín
thở
cầu
thoát
thân.
Thừa
thắng
đuổi
dài,
Tây
Kinh
quân
ta
chiếm
lại,
Tuyển
binh
tiến
đánh,
Đông
Đô
đất
cũ
thu
về.
Ninh
Kiều
máu
chảy
thành
sông,
tanh
trôi
vạn
dặm
Tuỵ
Động
thây
chất
đầy
nội,
nhơ
để
ngàn
năm.
Phúc
tâm
quân
giặc
Trần
Hiệp
đã
phải
bêu
đầu
Mọt
gian
kẻ
thù
Lý
Lượng
cũng
đành
bỏ
mạng.
Vương
Thông
gỡ
thế
nguy,
mà
đám
lửa
cháy
lại
càng
cháy
Mã
Anh
cứu
trận
đánh
mà
quân
ta
hăng
lại
càng
hăng.
Bó
tay
để
đợi
bại
vong,
giặc
đã
trí
cùng
lực
kiệt,
Chẳng
đánh
mà
người
chịu
khuất,
ta
đây
mưu
phạt
tâm
công.
Tưởng
chúng
biết
lẽ
ăn
năn
nên
đã
thay
lòng
đổi
dạ
Ngờ
đâu
vẫn
đương
mưu
tính
lại
còn
chuốc
tội
gây
oan.
Giữ
ý
kiến
một
người,
gieo
vạ
cho
bao
nhiêu
kẻ
khác,
Tham
công
danh
một
lúc,
để
cười
cho
tất
cả
thế
gian.
Bởi
thế:
Thằng
nhãi
con
Tuyên
Đức
động
binh
không
ngừng
Đồ
nhút
nhát
Thạnh,
Thăng
đem
dầu
chữa
cháy
Đinh
mùi
tháng
chín,
Liễu
Thăng
đem
binh
từ
Khâu
Ôn
kéo
lại
Năm
ấy
tháng
mười,
Mộc
Thạnh
chia
đường
từ
Vân
Nam
tiến
sang.
Ta
trước
đã
điều
binh
thủ
hiểm,
chặt
mũi
tiên
phong
Sau
lại
sai
tướng
chẹn
đường,
tuyệt
nguồn
lương
thực
Ngày
mười
tám,
trận
Chi
Lăng,
Liễu
Thăng
thất
thế
Ngày
hai
mươi,
trận
Mã
Yên,
Liễu
Thăng
cụt
đầu
Ngày
hăm
lăm,
bá
tước
Lương
Minh
đại
bại
tử
vong
Ngày
hăm
tám,
thượng
thư
Lý
Khánh
cùng
kế
tự
vẫn.
Thuận
đà
ta
đưa
lưỡi
dao
tung
phá
Bí
nước
giặc
quay
mũi
giáo
đánh
nhau
Lại
thêm
quân
bốn
mặt
vây
thành
Hẹn
đến
giữa
tháng
mười
diệt
giặc
Sĩ
tốt
kén
người
hùng
hổ
Bề
tôi
chọn
kẻ
vuốt
nanh
Gươm
mài
đá,
đá
núi
cũng
mòn
Voi
uống
nước,
nước
sông
phải
cạn.
Đánh
một
trận,
sạch
không
kình
ngạc
Đánh
hai
trận
tan
tác
chim
muông.
Cơn
gió
to
trút
sạch
lá
khô,
Tổ
kiến
hổng
sụt
toang
đê
vỡ.
Đô
đốc
Thôi
Tụ
lê
gối
dâng
tờ
tạ
tội,
Thượng
thư
Hoàng
Phúc
trói
tay
để
tự
xin
hàng.
Lạng
Giang,
Lạng
Sơn,
thây
chất
đầy
đường
Xương
Giang,
Bình
Than,
máu
trôi
đỏ
nước
Ghê
gớm
thay!
Sắc
phong
vân
phải
đổi,
Thảm
đạm
thay!
Ánh
nhật
nguyệt
phải
mờ
Bị
ta
chặn
ở
Lê
Hoa,
quân
Vân
Nam
nghi
ngờ
khiếp
vía
mà
vỡ
mật!
Nghe
Thăng
thua
ở
Cần
Trạm,
quân
Mộc
Thạnh
xéo
lên
nhau
chạy
để
thoát
thân.
Suối
Lãnh
Câu,
máu
chảy
thành
sông,
nước
sông
nghẹn
ngào
tiếng
khóc
Thành
Đan
Xá,
thây
chất
thành
núi,
cỏ
nội
đầm
đìa
máu
đen.
Cứu
binh
hai
đạo
tan
tành,
quay
gót
chẳng
kịp,
Quân
giặc
các
thành
khốn
đốn,
cởi
giáp
ra
hàng
Tướng
giặc
bị
cầm
tù,
như
hổ
đói
vẫy
đuôi
xin
cứu
mạng
Thần
Vũ
chẳng
giết
hại,
thể
lòng
trời
ta
mở
đường
hiếu
sinh
Mã
Kỳ,
Phương
Chính,
cấp
cho
năm
trăm
chiếc
thuyền,
ra
đến
biển
mà
vẫn
hồn
bay
phách
lạc,
Vương
Thông,
Mã
Anh,
phát
cho
vài
nghìn
cỗ
ngựa,
về
đến
nước
mà
vẫn
tim
đập
chân
run.
Họ
đã
tham
sống
sợ
chết
mà
hoà
hiếu
thực
lòng
Ta
lấy
toàn
quân
là
hơn,
để
nhân
dân
nghỉ
sức.
Chẳng
những
mưu
kế
kì
diệu
Cũng
là
chưa
thấy
xưa
nay
Xã
tắc
từ
đây
vững
bền
Giang
sơn
từ
đây
đổi
mới
Càn
khôn
bĩ
rồi
lại
thái
Nhật
nguyệt
hối
rồi
lại
minh
Ngàn
năm
vết
nhục
nhã
sạch
làu
Muôn
thuở
nền
thái
bình
vững
chắc
Âu
cũng
nhờ
trời
đất
tổ
tông
linh
thiêng
đã
lặng
thầm
phù
trợ;
Than
ôi!
Một
cỗ
nhung
y
chiến
thắng,
Nên
công
oanh
liệt
ngàn
năm
Bốn
phương
biển
cả
thanh
bình,
Ban
chiếu
duy
tân
khắp
chốn.
Xa
gần
bá
cáo,
Ai
nấy
đều
hay.
|