Hạ nồng độ triglyceride

Từ VLOS
(đổi hướng từ Hạ Nồng độ Triglyceride)
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Nồng độ triglyceride cao và nguy cơ mắc bệnh tim mạch có mối liên quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, người ta vẫn đang tranh cãi rằng triglyceride trực tiếp gây ra bệnh tim mạch hay chỉ là chất chỉ điểm sinh học về nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Ở Mỹ, con số nồng độ triglyceride trung bình liên tục tăng trong vòng 50 năm qua. Hiện trạng này có mối tương quan với sự gia tăng tỉ lệ mắc bệnh tiểu đường loại 2, bệnh kháng insulin và béo phì. Hướng dẫn của Hiệp hội Tim mạch Mỹ chỉ ra rằng lối sống ảnh hưởng rất lớn đến nồng độ triglyceride.[1] Điều đó cho thấy thay đổi lối sống, cùng với việc dùng thuốc trong một số trường hợp, có thể giúp hạ nồng độ triglyceride một cách hiệu quả.

Các bước[sửa]

Thay đổi Chế độ ăn và Lối sống[sửa]

  1. Giảm tiêu thụ đường tinh luyện và cacbon-hydrat đơn giản. Bạn nên loại bỏ hoặc hạn chế tiêu thụ đường tinh luyện và cacbon-hydrat đơn giản để giúp hạ nồng độ triglyceride. Hai thành phần này thường tồn tại cùng nhau và có trong nhiều thực phẩm, bao gồm bột mì trắng, đường trắng, nước ngọt có ga, kẹo, bánh kem, bánh nướng, bánh mì, ngũ cốc và mì ống.
    • Thay cho các thực phẩm trên, bạn hãy bổ sung cacbon-hydrat phức hợp vào chế độ ăn, ví dụ như gạo lứt, hạt diêm mạch, hạt kê, lúa mạch, bánh mì nguyên hạt và mì ống từ bột mì nguyên cám. Nguồn chất xơ trong các thực phẩm này cũng giúp hạ nồng độ triglyceride trong cơ thể.
    • Ngoài ra, bạn nên tránh tiêu thụ thực phẩm có hàm lượng đường ngô cao vì chúng chứa nhiều đường.[2][3]
    • Nhiều người cho rằng tiêu thụ cacbon-hydrat hàm lượng cao chỉ ảnh hưởng đến đường huyết. Tuy nhiên, trên thực tế, nó còn ảnh hưởng đến cả nồng độ triglyceride.
  2. Ăn thực phẩm tươi. Thay vì ăn thức ăn nhanh hoặc thức ăn chế biến sẵn chứa nhiều chất béo chuyển hóa, chất béo bão hòa và calo, bạn hãy ăn thức ăn tự chế biến ở nhà càng nhiều càng tốt. Rau củ quả tươi tốt hơn nhiều so với thực phẩm đóng hộp hoặc đông lạnh (những thực phẩm chứa nguyên liệu hoặc chất béo mà bạn không biết). Chất xơ và chất dinh dưỡng trong rau củ quả tươi sẽ giúp hạ nồng độ triglyceride và giúp bạn duy trì cân nặng khỏe mạnh.
    • Nếu có khả năng tài chính, bạn nên mua càng nhiều rau tươi càng tốt. Khi chuẩn bị bữa ăn, rau củ nên chiếm 2/3 đĩa.[3][2]
    • Nếu không mua được nông sản tươi ở cửa hàng thực phẩm, bạn có thể mua ở chợ siêu thị dạng hợp tác xã nhưng độ tươi của nông sản sẽ thấp hơn.
    • Rau củ quả có hàm lượng chất xơ cao. Chất xơ sẽ giúp hạ nồng độ triglyceride một cách hiệu quả.
  3. Ăn nhiều protein. Protein có thể giúp hạ nồng độ triglyceride. Bạn nên ăn nhiều thịt nạc như thịt gà không da và thịt đỏ nạc thay cho thịt đỏ nhiều mỡ và thịt gà chưa lóc da. Ngoài ra, có thể bổ sung protein từ nguồn thực vật như đậu và chế phẩm từ đậu nành.[3]
  4. Ăn nhiều loại cá tốt cho sức khỏe. Cá giàu axit béo omega-3 giúp hạ nồng độ triglyceride. Kết hợp cá, bao gồm cá ngừ, cá hồi và cá thu, vào bữa ăn ít nhất 2-3 lần mỗi tuần.
    • Cách này còn giúp bạn cắt giảm lượng thịt đỏ và các loại thịt nhiều mỡ khác.
    • Có thể nạp omega-3 từ rau lá xanh đậm, hạt lanh, quả óc chó, chế phẩm từ đậu nành và các loại đậu.[3][2]
  5. Chọn chất béo tốt. Dầu dùng để chế biến món ăn có thể ảnh hưởng rất lớn đến loại chất béo bạn nạp vào. Thay vì dùng dầu thực vật, bạn nên dùng dầu ôliu, dầu lạc, dầu hạt cải, dầu quả óc chó, dầu hạt lanh hoặc dầu dừa. Đây là các chất béo không bão hòa đơn tốt cho sức khỏe.
    • Ngoài ra, nên tránh tiêu thụ thực phẩm chứa dầu hydro hóa. Đọc thông tin trên nhãn sản phẩm để tránh mua phải sản phẩm có chứa các loại dầu có hại. [3][2]
    • Trái với suy nghĩ thông thường, chất béo thực chất không phải hoàn toàn có hại. Trên thực tế, chất béo tốt cho sức khỏe có thể giúp hạ nồng độ triglyceride.
  6. Uống ít đồ uống chứa cồn. Đồ uống chứa cồn chứa nhiều calo và đường, góp phần làm tăng nồng độ triglyceride. Vì vậy, bạn nên ngừng uống thức uống chứa cồn hoặc cố gắng hạn chế uống ở mức chỉ 1 ly mỗi ngày.
    • Điều này hoàn toàn đúng với tất cả các thức uống chứa cồn, bao gồm bia, rượu vang và rượu mạnh.[2][3]
  7. Tập thể dục. Việc luyện tập ảnh hưởng rất lớn đến nồng độ triglyceride. Hiệp hội Tim mạch Mỹ khuyến nghị nên duy trì việc tập các bài tập aerobic ít nhất 30 phút 5 ngày trong tuần và tập bài tập chắc cơ khoảng 20-30 phút 2 lần mỗi tuần.[4]
    • Thay đổi thói quen tập luyện để tránh nhàm chán. Bạn có thể thử tập đi bộ, đi bộ đường dài, chạy bộ, bơi lội hoặc đạp xe. Ngoài ra, có thể tham gia các lớp tập Yoga, Spinning, Pilates hoặc tập tăng cân. Chỉ cần thay đổi thói quen để tránh cảm giác nhàm chán.
    • Cách này cũng sẽ giúp bạn giảm cân. Việc giảm được 5 kg cũng ảnh hưởng rất lớn đến nồng độ triglyceride. Hãy hỏi bác sĩ xem cân nặng bao nhiêu là lý tưởng đối với tạng người và tình trạng bệnh của bạn. [3]

Uống Thuốc và Thực phẩm Chức năng[sửa]

  1. Uống thuốc Fibrate. Fibrate là nhóm thuốc giúp hạ nồng độ triglyceride. Các thuốc này hoạt động hiệu quả nhất đối với người có nồng độ triglyceride trên 500 mg/dL. Nên hỏi bác sĩ trước khi dùng thuốc Fibrate với các thuốc khác để tránh tác dụng phụ.
    • Thử các loại thuốc khác như Gemfibrozil (thuốc đường uống với liều 1200 mg mỗi ngày). Ngoài ra còn có thuốc Fenofibrate, thuốc đường uống với liều 145 mg mỗi ngày.[5][2]
  2. Thử uống Niacin. Niacin (hay còn được gọi là axit nicotinic) là chất hạ nồng độ triglyceride hiệu quả nhất đối với người có nồng độ triglyceride trên 500 mg/dL. Ngoài ra, thuốc còn giúp hạ nồng độ cholesterol xấu. Bạn có thể mua Niacin ở dạng thuốc không kê đơn nhưng cần trao đổi với bác sĩ trước khi dùng. Liều khuyến cáo là 1500-2000 mg mỗi ngày.
    • Một số bệnh nhân có thể gặp tác dụng phụ như đỏ bừng mặt.[5][2]
  3. Sử dụng dầu cá. Dầu cá, hay còn gọi là axit béo omega-3, là thực phẩm chức năng bổ sung chất béo tự nhiên có trong các loại cá tốt cho sức khỏe. Dầu cá cần được bổ sung liều cao để phát huy tác dụng nên người có nồng độ triglyceride trên 500 mg/dL sử dụng là tốt nhất.
    • Dầu cá là thực phẩm chức năng không được FDA (Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ) quản lý. Mặc dù vậy, bạn vẫn có thể uống Vascepa – thực phẩm chức năng bổ sung 1 gram axit béo omega-3 từ dầu cá tinh khiết được FDA chấp thuận. Bạn cũng có thể uống dầu cá dạng kê đơn đầu tiên – Epanova – nhưng chỉ khi nồng độ triglyceride trên 500 mg/dL và được bác sĩ kê đơn.
    • Dầu cá nên được uống với liều 4 g mỗi ngày.[5][2]
  4. Uống Statin. Statin thường được dùng để hạ cholesterol nhưng cũng được dùng để hạ nồng độ triglyceride. Statin thường chỉ được kê đơn cho người có nồng độ cholesterol xấu hạ, nồng độ cholesterol tốt thấp hoặc có tiền sử bị tắc nghẽn động mạch.
    • Hãy hỏi bác sĩ về các thuốc Atorvastatin kê đơn như Lipitor hoặc thuốc Simvastatin như Zocor.[2]

Hiểu về Triglyceride[sửa]

  1. Nhận thức mối liên kết giữa triglyceride và chế độ ăn không lành mạnh. Triglyceride được tiêu thụ trong chế độ ăn và một số thực phẩm “không lành mạnh” còn chứa nhiều triglyceride hơn. Triglyceride gần như không có giá trị dinh dưỡng nhưng lại chứa rất nhiều calo. Người ta nhận thấy có mối liên quan giữa bệnh tiểu đường với tình trạng tăng triglyceride huyết hay nồng độ triglyceride cao. Không những vậy, ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu đồng tình rằng ở mức độ lớn hơn, thực phẩm bạn tiêu thụ là nguyên nhân gây bệnh.
    • Trong một nghiên cứu đối với bệnh nhân ung thư vú trước khi chẩn đoán và đang chờ được tiến hành sinh thiết, các chuyên gia cũng xét đến yếu tố nồng độ triglyceride. Có khoảng 84 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú có nồng độ triglyceride cao. Những bệnh nhân này cũng có nồng độ beta-carotein (có trong cà rốt tươi) rất thấp.[6] Các số liệu này cho thấy bệnh nhân có chế độ ăn uống không lành mạnh.
  2. Hiểu rõ các nguyên nhân khác. Bên cạnh chế độ ăn không lành mạnh, có nhiều bệnh lý khác có thể làm tăng nồng độ triglyceride. Vì vậy, bạn nên cung cấp thông tin về tiền sử bệnh hoặc thuốc chữa bệnh để giúp xác định nguyên nhân khiến nồng độ triglyceride tăng cao. Nồng độ triglyceride cao có thể là do:
    • Tổn thương gan và xơ gan
    • Bệnh tiểu đường không thể kiểm soát
    • Rối loạn thận
    • Chế độ ăn ít protein và nhiều cacbon-hydrat
    • Rối loạn di truyền
    • Suy giáp
    • Thuốc chữa bệnh, bao gồm thuốc nội tiết tố nữ[7]
  3. Hiểu rõ tác dụng phụ do nồng độ triglyceride cao. Nồng độ triglyceride cao có thể góp phần gây bệnh tim mạch, ngoài ra còn có thể gây viêm tụy cấp tính đe dọa đến tính mạng.[5]
    • Bên cạnh đó, nồng độ triglyceride cao có thể gây ra các vấn đề ở nam giới. Trong nghiên cứu đối với khoảng 1.200 đối tượng nam giới, với khoảng 20% đối tượng được phát hiện và chẩn đoán bị suy giáp cận lâm sàng, người ta nhận thấy mối tương quan giữa chứng suy giáp cận lâm sàng với bệnh tim mạch ở nam giới dưới 50 tuổi. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng những đối tượng này có tỉ lệ mắc bệnh tim mạch và tỉ lệ nồng độ triglyceride tăng cao đáng kể.[8]
  4. Hiểu rõ mối liên quan giữa ung thư và nồng độ triglyceride. Người ta vẫn đang tiến hành nghiên cứu đối với triglyceride và vẫn rất khó xác định vai trò của nó đối với bệnh ung thư vì có quá nhiều yếu tố liên quan. Tuy nhiên, triglyceride có nhiều trong thực phẩm không lành mạnh và gây béo phì. Béo phì dẫn đến tình trạng tăng tế bào mỡ, tế bào mỡ tiết ra estrogen ở nam giới và nữ giới, từ đó gây ra nhiều bệnh ung thư.
    • Người ta đã tiến hành một nghiên cứu lớn ở Úc về nguy cơ tăng triglyceride và bệnh ung thư đối với 156.000 bệnh nhân có nồng độ triglyceride cao trong vòng 10 năm. Trong giai đoạn này, 5079 ca ung thư được phát hiện ở nam giới và 4738 ca ung thư được phát hiện ở nữ giới. Kết luận từ nghiên cứu chỉ ra rằng ung thư trực tràng, phổi, tuyến giáp, tuyến tiền liệt, ung thư phụ khoa và ung thư vú có liên quan đến tình trạng nồng độ triglyceride tăng.[9]
    • Một nghiên cứu khác ở 5.24 triệu đối tượng ở Anh cho thấy 166.955 đối tượng bị ung thư. Nghiên cứu này phát hiện ra rằng cứ mỗi 5 kg/m2 chỉ số BMI tăng lên thì nguy cơ mắc ung thư tử cung, thận, cổ tử cung, tuyến giáp, gan, đại tràng, buồng trứng và ung thư vú lại tăng lên.[10]
  5. Xét nghiệm nồng độ triglyceride. Trong xét nghiệm này, bác sĩ sẽ tiến hành lấy máu của bạn và đo nồng độ triglyceride trong máu. Bạn không được ăn uống từ 8-10 tiếng trước khi lấy máu và không được tập thể dục, thể thao trước khi xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm có thể khác nhau, từ mức độ bình thường đến rất cao. Mức độ kết quả xét nghiệm gồm có:
    • Bình thường là dưới 150 mg/dL
    • Mức giới hạn là 150-199 mg/dL
    • Cao là 200-499 mg/dL
    • Rất cao là 500 mg/dL
    • LNồng độ triglyceride ở mức 1000 mg/dL có liên quan đến tình trạng viêm tụy cực kỳ nguy hiểm.[11]

Nguồn và Trích dẫn[sửa]

  1. Miller, Michael, Stone, Neil, and Ballantyne, Christie. Triglycerides and Cardiovascular Disease: A Scientific Statement from the American Heart Association, Circulation 2011 123 2292-2333
  2. 2,0 2,1 2,2 2,3 2,4 2,5 2,6 2,7 2,8 http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/high-blood-cholesterol/in-depth/triglycerides/art-20048186?pg=2
  3. 3,0 3,1 3,2 3,3 3,4 3,5 3,6 https://www.umassmed.edu/uploadedfiles/LoweringTriglycerides.pdf
  4. http://www.heart.org/HEARTORG/GettingHealthy/PhysicalActivity/FitnessBasics/American-Heart-Association-Recommendations-for-Physical-Activity-in-Adults_UCM_307976_Article.jsp
  5. 5,0 5,1 5,2 5,3 Sweeney, Mary Ellen, and Khardori, Romesh. Hypertriglyceridemia Treatment and Management Medscape, last updated 4-4-2015
  6. Potischman, Nancy. Associations between breast cancer and plasma triglycerides and cholesterol. Nutrition and Cancer, 1991, 15 (3-4) 2-5-215
  7. https://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/003493.htm
  8. J Kretny, PE Heldgaard, and EM Bladbjerb. Subclinical Hypothyroidism is associated with low grade inflammation, increased triglyceride levels and predicts cardiovascular disease in males less than males under 50 years of age. Clinical Endocrinology 2004 61 232-238
  9. H Humor, W Borena, K Rapp et al, Serum Triglyceride Concentration and Cancer risk in a Large Cohort in Austria, British Journal of Cancer 2009,101, 1202-1206
  10. Bhaskarnan, Khrishnan, Douglas, Ian, Forbes, Harriet. BMI and Risk of 22 specific Cancers : A Population Based Cohort Study of 5.24 million UK Adults, the Lancet August 2014, vol 384, no 9945, p 775-765
  11. https://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/003493.htm

Liên kết đến đây