Chủ đề nóng: Phương pháp kỷ luật tích cực - Cổ học tinh hoa - Những thói hư tật xấu của người Việt - Công lý: Việc đúng nên làm - Giáo án Điện tử - Sách giáo khoa - Học tiếng Anh - Bài giảng trực tuyến - Món ăn bài thuốc - Chăm sóc bà bầu - Môi trường - Tiết kiệm điện - Nhi khoa - Ung thư - Tác hại của thuốc lá - Các kỹ thuật dạy học tích cực
- Dạy học phát triển năng lực - Chương trình giáo dục phổ thông
Nhận biết bệnh ghẻ
Từ VLOS
Ghẻ là bệnh phổ biến trên toàn thế giới và bệnh nhân ghẻ thuộc mọi lứa tuổi, chủng tộc, giàu cũng như nghèo.[1] Bệnh không liên quan đến vấn đề vệ sinh. Con mạt ngứa (có tên khoa học là Sarcoptes scabiei) là loài ký sinh vật trên da gây ra bệnh ghẻ. Mạt ngứa có tám chân và bạn chỉ có thể nhìn thấy chúng bằng kính hiển vi. Mạt ngứa cái trưởng thành đào vào lớp biểu bì (lớp trên của da) để làm nơi cư trú, tìm đồ ăn và đẻ trứng. Chúng hiếm khi đào xuyên qua lớp sừng là lớp ngoài cùng của biểu bì.[2][3] Nếu bạn nghĩ mình bị ghẻ thì nên làm theo các bước dưới đây để nhận biết hay chẩn đoán ghẻ, cũng như phương pháp điều trị và phòng ngừa trong tương lai.
Mục lục
Các bước[sửa]
Để ý dấu hiệu bệnh ghẻ[sửa]
-
Ngứa
ran.
Ghẻ
có
nhiều
dấu
hiệu
và
triệu
chứng,
trong
đó
phổ
biến
nhất
và
xuất
hiện
sớm
nhất
là
cảm
giác
ngứa
ran.
Đây
chính
là
phản
ứng
nhạy
cảm
của
da
đối
với
mạt
ngứa
cái,
trứng
và
chất
thải
của
chúng.
- Ngứa có khuynh hướng nặng hơn vào ban đêm và có thể làm người bệnh mất ngủ.[4]
-
Chú
ý
dấu
hiệu
phát
ban.
Cùng
với
ngứa
bạn
có
thể
sẽ
phát
ban,
đây
cũng
là
phản
ứng
dị
ứng
của
cơ
thể
với
mạt
ngứa.[4]
Ban
thường
có
dạng
giống
như
nốt
tròn
đỏ
bị
sưng
xung
quanh.[5]
Một
đặc
điểm
nữa
là
mạt
ngứa
thích
làm
tổ
trong
da
ở
một
số
bộ
phận
cụ
thể.
- Đối với người lớn, những nơi thường nổi ban là bàn tay, đặc biệt ở màng da giữa các ngón, nếp gấp da của cổ tay, khủy tay, đầu gối, mông, eo, dương vật, da xung quanh núm vú, nách, bả vai và vú.[2][3][6]
- Đối với trẻ em, nơi mạt ngứa thích trú ngụ là da đầu, mặt, cổ, lòng bàn tay và lòng bàn chân.[4]
-
Tìm
tổ
mạt
ngứa.
Khi
bị
ghẻ
đôi
khi
bạn
có
thể
nhìn
thấy
các
hang
ổ
rất
nhỏ
trên
da,
chúng
là
những
đường
ngoằn
ngoèo,
hơi
nhô
lên,
trắng
xám
hoặc
có
màu
da.
Kích
thước
ổ
mạt
ngứa
thường
dài
từ
một
centimet
trở
lên.[7]
- Tuy nhiên bạn khó có thể tìm thấy ổ của chúng vì trung bình người ta chỉ có 10-15 con mạt ngứa trong một lần bùng phát bệnh ghẻ.[2]
-
Để
ý
vết
loét
trên
da.
Bệnh
ghẻ
gây
ngứa
dữ
dội
và
đôi
khi
dẫn
tới
loét
da,
nguy
cơ
nhiễm
trùng
cao
và
đó
chính
là
một
biến
chứng
của
ghẻ.
Vết
loét
thường
nhiễm
phải
một
số
vi
khuẩn
như
tụ
cầu
vàng
hoặc
liên
cầu
khuẩn
tan
huyết
bê
ta
và
sau
đó
phát
triển
lan
rộng
trên
da.[7]
- Những vi khuẩn này cũng có thể gây viêm thận và thậm chí nhiễm trùng huyết, là tình trạng nhiễm trùng máu có nguy cơ dẫn đến tử vong.[2][3]
- Để tránh vấn đề này bạn không được gãi và phải nhẹ nhàng với da. Nếu không thể cưỡng lại bản thân bạn nên mang găng tay vải hoặc dùng băng keo cá nhân bọc các đầu ngón tay để tránh làm tổn thương da. Nhớ cắt ngắn móng tay.
- Dấu hiệu nhiễm trùng bao gồm đỏ, sưng, đau nhiều hơn, vết loét rỉ dịch hay mủ. Bạn phải đi khám bệnh ngay nếu cho rằng vết ban đã nhiễm trùng. Bác sĩ sẽ kê thuốc kháng sinh bôi cục bộ hoặc thuốc uống để điều trị nhiễm trùng.
-
Da
tróc
vảy.
Đây
là
một
biểu
hiện
khác
của
bệnh
ghẻ
vảy,
còn
gọi
là
ghẻ
Na
Uy
và
loại
ghẻ
này
rất
nghiêm
trọng.
Nó
có
đặc
điểm
là
các
vết
phồng
rộp
nhỏ,
kèm
theo
vảy
da
dày
phủ
rộng
khắp
cơ
thể.
Bệnh
ghẻ
vảy
chủ
yếu
xảy
ra
ở
những
người
có
hệ
miễn
dịch
yếu.
Phản
ứng
miễn
dịch
yếu
tạo
điều
kiện
cho
mạt
ngứa
sinh
sản
tự
do,
thậm
chí
có
trường
hợp
chúng
bùng
phát
tới
hai
triệu
con.[2]
- Hệ miễn dịch suy giảm còn có một ảnh hưởng khác, đó là triệu trứng ngứa và phát ban ít nghiêm trọng hơn hoặc hoàn toàn không có.
- Đối tượng dễ phát triển bệnh ghẻ vảy là người lớn tuổi có hệ miễn dịch yếu hoặc mắc HIV/AIDS, ung thư hạch bạch huyết hoặc ung thư máu. Bạn cũng có nguy cơ nếu đã từng cấy ghép nội tạng và gặp tình trạng khiến mình không thấy ngứa, như chấn thương tủy sống, liệt, mất cảm giác hay suy nhược thần kinh.[2][3][6]
Chẩn đoán ghẻ[sửa]
-
Đánh
giá
lâm
sàng.
Nếu
nghi
ngờ
bị
ghẻ
bạn
nên
nhanh
chóng
đi
khám
bệnh
để
được
chẩn
đoán
lâm
sàng.
Bác
sĩ
chẩn
đoán
bệnh
này
bằng
cách
thăm
khám
tình
trạng
phát
ban
và
ổ
mạt
ngứa.[8]
- Họ dùng kim cạo lấy một miếng da rất nhỏ, sau đó quan sát nó dưới kính hiển vi để tìm mạt ngứa, trứng hoặc chất thải của chúng.[8][9]
- Bạn nên biết mình vẫn có thể đã bị ghẻ cho dù không tìm thấy mạt ngứa, trứng hoặc chất thải của chúng bằng kính hiển vi. Mỗi đợt bùng phát bệnh chỉ có khoảng 10-15 con mạt ngứa trên toàn cơ thể.[4]
- Xét nghiệm bôi mực. Bác sĩ có thể dùng xét nghiệm bôi mực để phát hiện ổ mạt ngứa. Họ bôi mực lên vùng da ngứa và sau đó lau qua vết mực bằng gạc tẩm cồn. Nếu có ổ mạt ngứa nó sẽ giữ lại một ít mực và hiện ra dưới dạng đường ngoằn ngoèo tối màu.[10][11]
-
Loại
trừ
các
bệnh
khác
về
da.
Có
vô
số
các
bệnh
khác
về
da
có
thể
khiến
bạn
nhầm
lẫn
với
ghẻ.
Ổ
mạt
ngứa
là
đặc
điểm
chính
để
phân
biệt
bệnh
ghẻ,
vì
không
một
bệnh
nào
khác
giống
ghẻ
có
ổ
mạt
ngứa.
Bác
sĩ
sẽ
giúp
loại
trừ
các
khả
năng
khác
để
có
thể
chắc
chắn
trường
hợp
của
bạn
là
ghẻ.
- Đôi khi bệnh ghẻ bị nhầm lẫn với vết cắn hay chích của côn trùng hoặc rệp.
- Chốc lở cũng là một bệnh giống ghẻ và rất dễ lây nhiễm. Những nốt mẩn đỏ của bệnh này chủ yếu xuất hiện trên mặt, quanh mũi và miệng.[12]
- Ghẻ cũng dễ nhầm lẫn với chàm, là một dạng viêm da mãn tính. Phản ứng dị ứng của cơ thể với bệnh chàm là phát ban đỏ dưới dạng nốt sưng.[13] Người mắc chàm cũng có thể bị ghẻ và khi đó tình trạng còn trầm trọng hơn.
- Viêm nang lông cũng dễ gây nhầm lẫn, thường sẽ dẫn đến nhiễm trùng ở khu vực xung quanh nang lông. Bệnh này tạo ra các nốt đầu trắng nổi lên trên phần gốc màu đỏ, nằm xung quanh hay gần nang lông.[14]
- Vảy nến cũng có đặc điểm giống ghẻ, thuộc loại bệnh viêm da mãn tính với đặc trưng là sự phát triển quá mức của tế bào da dẫn đến hình thành vảy dày có màu bạc, và nhiều mảng đỏ ngứa, khô.[15]
Điều trị ghẻ[sửa]
-
Sử
dụng
permethrin.
Muốn
trị
bệnh
ghẻ
bạn
phải
tiêu
diệt
hết
mạt
ngứa
bằng
thuốc
trị
ghẻ,
là
các
loại
thuốc
kê
toa.
Hiện
tại
không
có
loại
thuốc
không
kê
toa
nào
có
thể
điều
trị
được
ghẻ.
Bác
sĩ
thường
chỉ
định
kem
bôi
chứa
permethrin
5%
để
tiêu
diệt
hết
mạt
ngứa
và
trứng
của
chúng.
Cách
dùng
là
bôi
từ
cổ
xuống
toàn
thân
và
tắm
sạch
sau
8-14
giờ.[5]
- Bôi lại thuốc sau 7 ngày (1 tuần). Tác dụng phụ là ngứa hoặc có cảm giác như kim châm.
- Bạn nên nhờ bác sĩ tư vấn trước khi điều trị ghẻ cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Kem permethrin an toàn cho cả trẻ sơ sinh 1 tháng tuổi,[9] nhưng đa số các chuyên gia khuyên bạn cũng nên bôi thuốc cho đầu và cổ trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.[16] Tuy nhiên bạn phải tránh bôi thuốc vào mắt và miệng bé.
- Sử dụng kem hay dầu xoa chứa crotamiton 10%. Kem hoặc dầu xoa chứa crotamiton cũng là thuốc kê toa trị ghẻ. Cách sử dụng là xoa từ cổ xuống toàn thân sau khi tắm. Xoa liều thứ hai sau liều đầu tiên 24 giờ và tắm sau khi xoa liều thứ hai 48 giờ. Lập lại hai liều xoa này sau 7-10 ngày.
- Sử dụng dầu xoa chứa lindane 1%. Dầu xoa này cũng giống như các thuốc trị ghẻ khác, cách dùng là bôi từ cổ xuống toàn thân và tắm sạch sau 8-12 giờ đối với người lớn, và sau 6 giờ đối với trẻ em. Xoa lại thuốc sau 7 ngày. Bạn không nên dùng lindane cho trẻ nhỏ dưới 2 tuổi, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, hay người có hệ miễn dịch yếu.
- Sử dụng ivermectin. Đây là thuốc uống trị ghẻ. Có bằng chứng cho thấy thuốc này an toàn và hiệu quả, tuy nhiên nó không được Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê chuẩn cho sử dụng. Thuốc ivermectin được kê với một liều uống duy nhất theo công thức 200 mcg/kg, và uống với nước khi bụng đói.[17]
-
Điều
trị
kích
ứng
da.
Các
triệu
chứng
và
tổn
thương
trên
da
có
thể
cần
đến
ba
tuần
mới
khỏi,
cho
dù
mạt
ngứa
đã
bị
tiêu
diệt
hết.
Nếu
trong
thời
gian
này
tổn
thương
da
không
hết,
bạn
nên
điều
trị
lại
vì
có
thể
lần
điều
trị
trước
đó
không
thành
công
hoặc
bệnh
tái
phát.[5]
Làm
mát
da
là
cách
giải
trừ
ngứa
hiệu
quả,
để
thực
hiện
bạn
chỉ
cần
nằm
vào
bồn
nước
mát
hoặc
chườm
mát
cho
khu
vực
da
bị
kích
ứng.
- Rắc thêm yến mạch hoặc muối nở vào bồn tắm để da được làm dịu tốt hơn.[18]
- Bạn cũng có thể dùng dầu xoa calamin, là sản phẩm đã cho thấy hiệu quả trong điều trị ngứa ở da bị kích ứng nhẹ. Lựa chọn tốt nhất là kem dưỡng ẩm chống ngứa Sarna hoặc Aveeno. Tránh dùng bất kì sản phẩm nào chứa chất tạo hương hay thuốc nhuộm vì chúng làm da kích ứng.[4][18]
-
Mua
thuốc
bôi
steroid
hay
thuốc
uống
kháng
histamin.
Cả
hai
loại
thuốc
này
đều
giúp
trị
ngứa
do
ghẻ,
thật
ra
đó
chính
là
phản
ứng
dị
ứng
của
cơ
thể
với
mạt
ngứa,
trứng
và
chất
thải
của
chúng.
Steroid
là
chất
ức
chế
ngứa
và
viêm
rất
mạnh,
ví
dụ
điển
hình
của
các
thuốc
bôi
này
là
betamethasone
và
triamcinolone.
- Vì là phản ứng dị ứng nên bạn cũng có thể dùng thuốc kháng histamin không kê toa để trị ngứa, ví dụ như Diphenhydramin, Dorotec, Loratadin và Telfast BD. Những thuốc này đặc biệt có ích vào ban đêm để giảm ngứa dễ ngủ. Ngoài ra thuốc Diphenhydramin còn có tác dụng an thần nhẹ. Ví dụ về thuốc kháng histamin mua theo toa là Atarax.[5]
- Kem bôi hydrocortisone 1% có thể mua không cần toa và có hiệu quả trị ngứa khá tốt.
Đề phòng ghẻ[sửa]
- Cẩn thận tránh phơi nhiễm. Con đường nhiễm bệnh ghẻ phổ biến nhất là qua tiếp xúc da với da với người bệnh, tiếp xúc càng lâu thì nguy cơ càng cao. Bệnh cũng có thể lây qua đường tiếp xúc gián tiếp vào vật dụng như chăn, gối, quần áo và bàn ghế, tuy nhiên khả năng thấp hơn. Khi rời khỏi cơ thể con người mạt ngứa vẫn sống được thêm 48-72 giờ. Với người lớn bệnh ghẻ thường lây qua hoạt động tình dục.[2]
-
Tìm
hiểu
về
thời
gian
ủ
bệnh.
Đối
với
người
mới
lây
ghẻ,
phải
mất
2-6
tuần
triệu
chứng
và
dấu
hiệu
bệnh
mới
phát
triển
ra
ngoài.
Bạn
nên
nhớ
người
nhiễm
bệnh
có
thể
lây
ghẻ
cho
người
khác
mặc
dù
họ
không
biểu
hiện
triệu
chứng.
- Với những người đã từng bị lây ghẻ trước đó thì triệu chứng phát triển nhanh hơn nhiều, chỉ trong 1-4 ngày.[2]
-
Nhận
biết
đối
tượng
có
nguy
cơ.
Có
một
số
nhóm
người
dễ
lây
ghẻ
cho
nhau,
bao
gồm
trẻ
em,
bà
mẹ
có
con
nhỏ,
người
lớn
trong
độ
tuổi
hoạt
động
tình
dục,
người
sống
trong
nhà
dưỡng
lão,
trung
tâm
trợ
sinh
và
cơ
sở
chăm
sóc
mở
rộng.[3]
- Cơ chế tăng nguy cơ lây bệnh ở những đối tượng này là từ sự tiếp xúc da với da.
-
Vệ
sinh
và
vô
trùng
nhà
cửa.
Các
biện
pháp
kiểm
soát
và
ngăn
ngừa
tái
lây
nhiễm
ghẻ
thường
phải
thực
hiện
song
song
với
việc
điều
trị.
Phương
pháp
này
được
khuyến
cáo
áp
dụng
cho
tất
cả
những
thành
viên
sống
chung
nhà
và
có
tiếp
xúc
gần
gũi,
bao
gồm
bạn
tình
của
người
bệnh.[1]
- Vào ngày bắt đầu điều trị ghẻ, tất cả quần áo, bộ đồ giường và khăn tắm được sử dụng trong vòng 3 ngày vừa qua cần phải giặt trong nước nóng và sấy khô ở nhiệt độ cao nhất, hoặc giặt khô. Nếu không thể giặt sấy hoặc giặt khô, bạn bỏ chúng vào túi nhựa kín trong thời gian ít nhất 7 ngày. Mạt ngứa chỉ có thể sống 48-72 giờ sau khi rời da người.[1]
- Cũng trong ngày đầu tiên bạn phải hút bụi sàn nhà và bàn ghế. Vứt bỏ túi đựng hoặc đổ hết bụi và rửa sạch hộp chứa bụi của máy sau khi hút bụi xong. Nếu không thể tháo rời hộp đựng bạn phải dùng khăn giấy ẩm lau sạch mạt ngứa trong đó.[1]
- Không điều trị ghẻ cho thú nuôi. Mạt ngứa gây ghẻ không thể sống trên động vật và động vật cũng không thể lây ghẻ cho người.[3]
- Bạn không cần và cũng không nên dùng thuốc phun diệt côn trùng để loại trừ mạt ngứa trong môi trường.[16]
Lời khuyên[sửa]
- Trẻ em và người lớn có thể tiếp tục tham gia các hoạt động bình thường như đi học hoặc đi làm sau ngày bắt đầu điều trị.
Cảnh báo[sửa]
- Đi khám bệnh nếu tình trạng ban không giảm trong 2-3 tuần, trở nên nặng hơn, tái phát sau khi điều trị hoặc dường như bị nhiễm trùng (đỏ, sưng nhiều hơn, hoặc có mủ).
Nguồn và Trích dẫn[sửa]
- ↑ 1,0 1,1 1,2 1,3 https://www.aad.org/dermatology-a-to-z/diseases-and-treatments/q---t/scabies/tips
- ↑ 2,00 2,01 2,02 2,03 2,04 2,05 2,06 2,07 2,08 2,09 2,10 2,11 http://www.cdc.gov/parasites/scabies/epi.html
- ↑ 3,0 3,1 3,2 3,3 3,4 3,5 3,6 https://www.aad.org/dermatology-a-to-z/diseases-and-treatments/q---t/scabies
- ↑ 4,0 4,1 4,2 4,3 4,4 http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/scabies/basics/definition/con-20023488
- ↑ 5,0 5,1 5,2 5,3 5,4 5,5 5,6 5,7 https://www.merckmanuals.com/professional/dermatologic-disorders/parasitic-skin-infections/scabies
- ↑ 6,0 6,1 http://www.who.int/water_sanitation_health/diseases/scabies/en/
- ↑ 7,0 7,1 http://www.cdc.gov/parasites/scabies/disease.html
- ↑ 8,0 8,1 http://www.cdc.gov/parasites/scabies/diagnosis.html
- ↑ 9,0 9,1 https://www.aad.org/dermatology-a-to-z/diseases-and-treatments/q---t/scabies/diagnosis-treatment
- ↑ http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3222761/
- ↑ http://www.nhs.uk/Conditions/Scabies/Pages/Diagnosis.aspx
- ↑ https://online.epocrates.com/u/2935124/Scabies
- ↑ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/eczema.html
- ↑ http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/folliculitis/basics/definition/con-20025909
- ↑ http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/psoriasis/basics/definition/con-20030838
- ↑ 16,0 16,1 http://www.cdc.gov/parasites/scabies/treatment.html
- ↑ http://www.cdc.gov/parasites/scabies/health_professionals/meds.html
- ↑ 18,0 18,1 http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/itchy-skin/basics/lifestyle-home-remedies/con-20028460
- ↑ http://www.merckmanuals.com/home/skin-disorders/parasitic-skin-infections/scabies