Những phát hiện về vạn vật /P 4 - Chương 14
Những phát hiện về vạn vật /P 4 - Chương 14
Các thánh Augustin, Chrysostom và nhiều vị khác cùng tầm cỡ không ngần ngại thừa nhận rằng không thể có những điểm Đối Chân (tiếng Latinh là “Anti-podes”, có nghĩa là một nơi mà chân người ta ở phía đối diện).
Lactantius, nhà hùng biện Kitô giáo đáng kính nể, một “Cicero của Kitô giáo”, đã nêu câu hỏi, “Có ai lại ngu ngốc đến độ tin rằng có những người chân ở trên đầu, hay những nơi có các vật treo ngược, cây mọc ngược, hay mưa đổ từ dưới lên trên? Chúng ta có thể tìm thấy điều kỳ diệu của những vườn Babylon treo ngược ở đâu nếu chúng ta tin rằng có một thế giới treo ở những điểm Đối Chân?” Các thánh Augustin, Chrysostom và nhiều vị khác cùng tầm cỡ không ngần ngại thừa nhận rằng không thể có những điểm Đối Chân (tiếng Latinh là “Anti-podes”, có nghĩa là một nơi mà chân người ta ở phía đối diện).
Các lý thuyết cổ điển về những điểm Đối Chân mô tả một vùng lửa nóng không thể đi qua bao quanh xích đạo, phân cách chúng ta với vùng có người ở phía mặt bên kia của địa cầu. Lý thuyết này tạo những mối hoài nghi nghiêm trọng nơi đầu óc những người Kitô giáo về tính hình cầu của trái đất. Dòng giống sống phía bên dưới vùng xích đạo đó dĩ nhiên không thể là dòng giống của Ađam, cũng không thể là dòng giống những người được Chúa Kitô cứu chuộc. Nếu người ta tin rằng con tàu của ông Nôê đã dừng lại trên núi Ararat phía bắc xích đạo, thì không có cách nào có thể có người sống đặt chân tới được các điểm Đối Chân. Để tránh rơi vào lạc đạo, những tín hữu Kitô giáo thích tin rằng không thể có các điểm Đối Chân, hoặc thậm chí nếu cần, không thể có trái đất hình cầu.
Những
nhà
địa
lý
Hy
Lạp
và
Rôma
cổ
đại
không
phải
bận
tâm
về
những
vấn
đề
như
thế.
Nhưng
không
một
người
Kitô
giáo
nào
có
thể
nhìn
nhận
rằng
có
những
con
người
phát
sinh
từ
Ađam
hay
bị
ngăn
chặn
bởi
vùng
lửa
xích
đạo
khiến
họ
không
đến
được
với
Tin
Mừng
của
Chúa
Kitô.
Thơ
Rôma
10,
18
tuyên
bố,
“Phải,
quả
thực,
tiếng
của
họ
đã
vang
cùng
trái
đất
và
lời
của
họ
đã
vang
đi
khắp
địa
cầu”.
Cả
Đức
Tin
lẫn
Kinh
Thánh
đều
không
chấp
nhận
có
một
nơi
có
những
người
không
thuộc
dòng
giống
Ađam
hay
Chúa
Kitô.
Một
tác
giả
thế
kỷ
10
diễn
giải
về
boethius
có
viết,
“Chớ
gì
đừng
có
ai
cho
rằng
chúng
tôi
chấp
nhận
có
những
điểm
Đối
chân,
là
điều
hoàn
toàn
đi
ngược
lại
đức
tin
Kitô
giáo”.
“Tin
vào
những
điểm
Đối
Chân”
đã
trở
thành
một
lời
kết
tội
những
người
lạc
đạo
chuẩn
bị
lên
giàn
hỏa
thiêu.
Cũng
có
một
số
ít
người
tìm
cách
thỏa
hiệp
bằng
việc
cố
gắng
chấp
nhận
hình
cầu
của
trái
đất
vì
những
lý
do
địa
lý,
nhưng
về
phương
diện
thần
học
họ
vẫn
còn
phủ
nhận
sự
tồn
tại
của
những
người
sống
ở
những
điểm
đối
chân.
Nhưng
con
số
này
không
nhiều.
Các nhà địa lý Kitô giáo không có những dữ kiện để lấp đầy các bản đồ của họ, nên họ đã tìm được những chất liệu dồi dào nơi những tưởng tượng của thời xa xưa. Trong khi họ khinh bỉ khoa học của ngoại giáo, mà họ coi là đe dọa đức tin kitô giáo, thì họ lại không ngần ngại sử dụng những hình ảnh của thần thoại ngoại giáo và sử dụng chúng để phục vụ cho những mục đích có tính giáo điều nhất của Kitô giáo. Trong khi các nhà địa lý Kitô giáo e sợ những tính toán khá chính xác của eratosthenes, Hipparchus và Ptolêmê, thì họ lại vui vẻ trang trí cho những bản đồ lấy Giêrusalem làm trung tâm của họ bằng những điều ngông cuồng nhất của trí tưởng tượng ngoại giáo. Julius Solinus, biệt danh là Polyhistor hay “Người Kể Chuyện Đa Năng” đã là nguồn cung cấp tiêu chuẩn cho nền thần thoại địa lý trong suốt một thời gian dài, từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 14. Bản thân Solinus có thể không phải một tín đồ Kitô giáo. Chín phần mười của bộ Collectanea rerum memorabilium (Sưu tập những Điều Kỳ Diệu), xuất bản năm 230-240, rút ra từ tác phẩm Lịch Sử Thiên Nhiên của Pliny, tuy Solinus không một lần nhắc đến tên tác giả. Và phần còn lại được xào nấu từ những tác giả cổ điển khác. Tài năng đặc biệt của Solinus, như một nhà lịch sử địa lý gần đây nhận xét, là ở chỗ “đãi cát để lấy vàng”. Thật khó có thể tìm được một người khác trong suốt một thời gian dài đã ảnh hưởng đến khoa địa lý “một cách sâu đậm hay tệ hại đến thế”.
Nhưng hạt cát của Solinus đã có sức quyến rũ đặc biệt. Chính thánh Augustin đã tham khảo Solinus, cũng như nhiều nhà tư tưởng Kitô giáo hàng đầu của thời Trung Cổ. Những câu chuyện và hình ảnh thần thoại của Solinus đã chứa đầy những bản đồ của Kitô giáo mãi cho tới Thời đại Khám phá. Chúng trở thành một mạng lưới của các kinh tuyến và vĩ tuyến mà Ptolêmê đã để lại. Solinus tìm thấy những diều kỳ diệu khắp nơi. Ông kể rằng ở Italia, có những dân thờ cúng thần Apollo bằng cách nhảy múa chân trần trên than hồng, những con mãng xà dài và mập sống bằng vú những con bò sữa và những con linh miêu nước đái đóng băng thành “những viên ngọc quí, có sức hút của nam châm và có màu hổ phách”. Ở Rhegium có những con dê và châu chấu không còn dám kêu bởi vì Hercule tức giận do tiếng ồn của chúng đã bắt chúng phải câm lặng. Dọc bờ biển Ethiopia có những dân bốn mắt, trong khi dọc theo dòng sông Niger có những con kiến khổng lồ như những con chó giữ nhà. Ở Đức có một loài giống như con lừa có môi trên dài đến nỗi “nó phải đi giật lùi để ăn”.
Có lẽ cái di sản lâu dài nhất của thời đó là biển Địa Trung Hải, quá quen thuộc khiến chúng ta ngày nay đã quên mất ý nghĩa của nó. Đó là một vùng biển nằm giữa châu Phi, châu Á và châu Âu và người Rôma đã gọi nó là mare nostrum (biển của chúng ta). Solinus là một trong những người đầu tiên gọi nó là mare mediterraneum, nghĩa là biển ở giữa trái đất. Vị giám mục thông thái Isodore ở Seville đã đổi nó thành một tên riêng và không ai có thể chối cãi uy quyền của ông.
Trong khi khoa địa lý ở châu Âu đang trở thành một mớ nhập nhằng những giáo điều và óc tưởng tượng, thì ở những nơi khác người ta vẫn đang gia tăng hiểu biết về trái đất, cũng như khả năng vẽ bản đồ trái đất.
Không có những trợ giúp của Erastothenes, Hipparchus hay Ptolêmê, người Trung Hoa đã độc lập sáng chế ra một họa đồ cho bề mặt thất thường của trái đất. Chúng ta đã thấy điều mà đồng hồ làm cho thời gian, thì họa đồ hình chữ nhật đã làm cho không gian, bằng cách cung cấp những khung đồng đều để phân biệt, mô tả, khám phá và tái khám phá sự đa dạng vô cùng của đất và biển, núi đồi và sa mạc.
Nếu khoa địa lý Hy Lạp dựa vào trái đất hình cầu, thì khoa địa lý Trung Hoa dựa vào trái đất hình dẹt. Vào thời mà Ptolêmê đang thực hiện những công trình của mình ở phương Tây, thì ở Trung Hoa, các nhà địa lý đã phát triển cho riêng mình những kỹ thuật vẽ bản đồ và đã có một bề dày truyền thống về khoa vẽ bản đồ thế giới. Người Hy Lạp đã khai triển hệ thống vẽ họa đồ khung theo các đường vĩ tuyến và kinh tuyến, rất dễ vẽ trên một quả cầu. Nhưng vì việc dọi một bề mặt hình cầu xuống một mặt phẳng quá khó, nên trong thực tế hệ thống họa đồ khung của người Hy Lạp cũng không khác bao nhiêu với việc vẽ họa đồ theo quan niệm trái đất phẳng.
Vì hệ thống họa đồ khung của người Hy Lạp bắt nguồn từ quan niệm trái đất hình cầu, nên hệ thống họa đồ chữ nhật của người trung Hoa chắc hẳn phải có những nguồn gốc hoàn toàn khác. Những nguồn gốc ấy là gì.
Từ những tài liệu lịch sử sớm nhất của thời nhà Tần (221-207 trước C.N.), chúng ta thấy nhắc nhiều đến những bản đồ và công dụng của chúng. Nước Trung Hoa được thống nhất năm 221 trước C.N., vừa là sản phẩm vừa là người sản sinh ra chế độ quan liêu to lớn, thấy cần phải biết những đặc điểm và ranh giới của các vùng đất bao la của mình. Bộ Lễ của nhà Chu (1120-256 trước C.N.) đã cho người soạn ra những bản đồ của từng lãnh địa và kiểm kê nhân khẩu của lãnh địa. Khi vua Chu đi thăm lãnh thổ của mình, nhà địa lý triều đình luôn tháp tùng để giảng giải cho vua về địa hình và sản phẩm của mỗi vùng trong nước. Dưới triều Hán (202 trước C.N.-200 C.N.), các bản đồ luôn luôn xuất hiện như một bộ máy không thể thiếu của đế quốc.
Hai thiên kỷ cuối cùng ở Trung Hoa nở rộ những tài năng vẽ bản đồ. Cả trước khi Ptolêmê thực hiện công trình của mình ở Alexandria, một người trung Hoa tiên phong tên là Khang Uông (78-139 C.N.) đã “vẽ ra những đường tọa độ cho trời và đất và tính toán dựa trên những tọa độ đó”. Hai thế kỷ sau, Phi Sở Y, một Ptolêmê của Trung Quốc, đã áp dụng những kỹ thuật này để vẽ ra một bản đồ chi tiết Trung Hoa gồm 18 tờ.
Trong lời tựa cho bản đồ của mình, Phi Sở Y đã đưa ra những hướng dẫn đơn giản cho việc vẽ bản đồ đúng tỷ lệ, với những khung hình chữ nhật. “Nếu vẽ bản đồ mà không có những khung chia độ, thì không thể nào phân biệt được xa với gần... Nhưng những khung chia độ cho ta một tỷ lệ đúng của các khoảng cách. Cũng thế, ta sẽ có những điểm tương đối nhau nhờ dùng những cạnh phân độ của những tam giác vuông; và tỷ lệ đúng của các độ và hình được biểu thị bằng việc xác định cao và thấp, các kích thước của góc, các đường cong và đường thẳng. Như thế, dù có những trở ngại lớn về hình dạng của các núi cao hay hồ rộng, những khoảng đường dài hay những nơi xa lạ, những chỗ phải leo lên và đi xuống, những bậc hay những đường vòng-tất cả đều có thể ghi nhận và xác định được. Nếu ta áp dụng đúng hệ thống khung chữ nhật, thì dù là đường thẳng hay đường cong, gần hay xa, không có gì có thể che giấu chúng ta về hình dạng của chúng”.
Làm cách nào người Trung Hoa phát triển được một kỹ thuật tinh vi như thế để nắm được những sự đa dạng của trái đất? Hình như từ rất xa xưa, họ đã chia đất thành những mảnh bằng một sơ đồ các tọa độ. Từ thời nhà Tần, các bản đồ của hoàng đế đã được vẽ trên lụa. Các từ kinh và vĩ mà Phi Sở Y đã dùng cho những tọa độ trên bản đồ cũng là từ để chỉ các sợi dọc và sợi khổ trong ngành dệt vải. Phải chăng ý tưởng về một khung chữ nhật trên bản đồ đã phát sinh từ việc khám phá ra rằng có thể tìm ra một điểm trên bản đồ vẽ trên lụa bằng cách lần theo một sợi dọc và sợi khổ đến chỗ hai sợi này gặp nhau? Hay nguồn gốc của nó là một bảng bói toán của thời Hán sử dụng những tọa độ biểu thị toàn bộ vũ trụ? Hay nó có liên quan cách nào đó với bảng cờ tướng Trung Hoa xếp quân trên các đường giao nhau? Dù nguồn gốc là gì, thì kết quả đã rõ: đó là một hệ thống khung chữ nhật đã phát triển và được sử dụng rộng rãi.
Tới giữa thế kỷ 12, trước cả khi hệ thống của Ptolêmê được phục hưng tại châu Âu, khi nhà địa lý ả Rập vẽ bản đồ thế giới năm 1150 cho vua Sicily là Roger II, ông cũng đã dùng một họa đồ khung và giống như người Trung Hoa, ông không để ý gì tới mặt cong của trái đất. Theo Joseph Needham gợi ý, truyền thống lâu đời của Trung Hoa đã đến với người ả Rập ở Quảng Đông và qua những chuyến đi lại ngày càng nhiều của người ả Rập sang phương Đông. Và vì thế có lẽ người Trung Hoa đã đóng một vai trò trong việc chấm dứt Thời Thụt Hậu Lớn-giúp cho các nhà địa lý châu Âu trở lại con đường truy tìm kiến thức, khám phá lại những dụng cụ đo đạc mà Hy Lạp và Rôma đã để lại.
Mục lục[sửa]
- Những phát hiện về vạn vật /P 1 - Chương 1
- Những phát hiện về vạn vật /P 1 - Chương 2
- Những phát hiện về vạn vật /P 1 - Chương 3
- Những phát hiện về vạn vật /P 2 - Chương 4
- Những phát hiện về vạn vật /P 2 - Chương 5
- Những phát hiện về vạn vật /P 2 - Chương 6
- Những phát hiện về vạn vật /P 3 - Chương 7
- Những phát hiện về vạn vật /P 3 - Chương 8
- Những phát hiện về vạn vật /P 3 - Chương 9
- Những phát hiện về vạn vật /P 4 - Chương 10
- Những phát hiện về vạn vật /P 4 - Chương 11
- Những phát hiện về vạn vật /P 4 - Chương 12
- Những phát hiện về vạn vật /P 4 - Chương 13
- Những phát hiện về vạn vật /P 4 - Chương 14
- Những phát hiện về vạn vật /P 5 - Chương 15
- Những phát hiện về vạn vật /P 5 - Chương 18
- Những phát hiện về vạn vật /P 5 - Chương 19
- Những phát hiện về vạn vật /P 6 - Chương 21
- Những phát hiện về vạn vật /P 6 - Chương 22
- Những phát hiện về vạn vật /P 6 - Chương 23
- Những phát hiện về vạn vật /P 6 - Chương 24
- Những phát hiện về vạn vật /P 6 - Chương 25
- Những phát hiện về vạn vật /P 6 - Chương 26
- Những phát hiện về vạn vật /P 7 - Chương 27
- Những phát hiện về vạn vật /P 7 - Chương 28
- Những phát hiện về vạn vật /P 7 - Chương 29
- Những phát hiện về vạn vật /P 7 - Chương 30
- Những phát hiện về vạn vật /P 7 - Chương 31
- Những phát hiện về vạn vật /P 7 - Chương 32
- Những phát hiện về vạn vật /P 7 - Chương 33
- Những phát hiện về vạn vật /P 8 - Chương 34
- Những phát hiện về vạn vật /P 8 - Chương 35
- Những phát hiện về vạn vật /P 8 - Chương 36
- Những phát hiện về vạn vật /P 8 - Chương 37
- Những phát hiện về vạn vật /P 9 - Chương 38
- Những phát hiện về vạn vật /P 9 - Chương 39
- Những phát hiện về vạn vật /P 9 - Chương 41
- Những phát hiện về vạn vật /P 9 - Chương 42
- Những phát hiện về vạn vật /P 9 - Chương 43
- Những phát hiện về vạn vật /P 10 - Chương 44
- Những phát hiện về vạn vật /P 10 - Chương 45
- Những phát hiện về vạn vật /P 10 - Chương 46
- Những phát hiện về vạn vật /P 10 - Chương 47
- Những phát hiện về vạn vật /P 10 - Chương 48
- Những phát hiện về vạn vật /P 10 - Chương 49
- Những phát hiện về vạn vật /P 11 - Chương 50
- Những phát hiện về vạn vật /P 11 - Chương 51
- Những phát hiện về vạn vật /P 11 - Chương 52
- Những phát hiện về vạn vật /P 11 - Chương 53
- Những phát hiện về vạn vật /P 12 - Chương 54
- Những phát hiện về vạn vật /P 12 - Chương 55
- Những phát hiện về vạn vật /P 12 - Chương 56
- Những phát hiện về vạn vật /P 12 - Chương 57
- Những phát hiện về vạn vật /P 12 - Chương 58
- Những phát hiện về vạn vật /P 12 - Chương 59
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 60
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 61
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 62
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 63
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 64
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 65
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 66
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 67
- Những phát hiện về vạn vật /P 13 - Chương 68
- Những phát hiện về vạn vật /P 14 - Chương 69
- Những phát hiện về vạn vật /P 14 - Chương 70
- Những phát hiện về vạn vật /P 14 - Chương 71
- Những phát hiện về vạn vật /P 14 - Chương 72
- Những phát hiện về vạn vật /P 14 - Chương 73
- Những phát hiện về vạn vật /P 14 - Chương 74
- Những phát hiện về vạn vật /P 14 - Chương 75
- Những phát hiện về vạn vật /P.14 - Chương 76
- Những phát hiện về vạn vật /P.15 - Chương 77
- Những phát hiện về vạn vật /P.15 - Chương 78
- Những phát hiện về vạn vật /P.15 - Chương 79
- Những phát hiện về vạn vật /P.15 - Chương 80
- Những phát hiện về vạn vật /P.15 - Chương 81
- Những phát hiện về vạn vật /P.15 - Chương 82
- Những phát hiện về vạn vật /P.15 - Chương Kết
- Những phát hiện về vạn vật và con người, Daniel J. Boorstin (The discovers - A history of Man s Search to know his world and himself)
- Dịch giả: Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.
Liên kết đến đây
- Những phát hiện về vạn vật và con người, Daniel J. Boorstin
- Bản mẫu:Phát hiện về vạn vật
- Những phát hiện về vạn vật /P 1 - Chương 1
- Những phát hiện về vạn vật /P 1 - Chương 2
- Những phát hiện về vạn vật /P 1 - Chương 3
- Những phát hiện về vạn vật /P 2 - Chương 4
- Những phát hiện về vạn vật /P 2 - Chương 5
- Những phát hiện về vạn vật /P 2 - Chương 6
- Những phát hiện về vạn vật /P 3 - Chương 7
- Những phát hiện về vạn vật /P 3 - Chương 8
- Xem thêm liên kết đến trang này.