Sự hình thành tinh thần khoa học (Gaston Bachelard)
Tác phẩm này được xuất bản năm 1938, bốn năm sau “Tinh thần khoa học mới”, trong đó Bachelard nhằm “nắm bắt tinh thần khoa học đương đại trong biện chứng của nó”. Với quan điểm là triết học phải rút ra những kết luận từ khoa học tự nhiên chứ không phải ngược lại, những tư duy của ông khởi đi từ những thành tựu khoa học có tính cách mạng của đầu thế kỷ 20: hình học phi Euclide, toán học xác suất, thuyết tương đối và thuyết lượng tử… để đề nghị một phương pháp luận “phi Descartes”… Những điều này, có thể nói là về mặt sáng của tinh thần khoa học đương đại, hiện nay đã được phổ biến nhiều, nên người dịch nhận thấy có lẽ việc dịch Sự hình thành tinh thần khoa học nói về vùng tối mà tư duy khoa học phải vượt qua, có lẽ mang nhiều điểm mới và có ích hơn để phục vụ bạn đọc Việt Nam ngày nay. Tác phẩm này chỉ nói về việc hình thành tư duy khoa học cổ điển, nói chính xác hơn là về những chướng ngại của tư duy tiền khoa học trong thế kỷ 18 về trước, mà nó đã vượt qua.
Cuộc đời tự học và dạy học của Bachelard có ảnh hưởng không nhỏ đến các tác phẩm về khoa học luận của ông, nhất là trong tác phẩm Sự hình thành tinh thần khoa học được dịch và giới thiệu ở đây. Đồng thời như ta đã thấy, đây cũng là một tác phẩm nối liền hai dòng tư duy của ông, tư duy phân tâm học về tổng thể con người cá thể, kể cả những ảnh hưởng vô thức, đứng trước thế giới; và tư duy khoa học chính xác, nhằm tiến đến hiểu biết duy lý về Hiện Thực. Tóm lại, có thể nói không tác phẩm nào “mang dấu ấn Bachelard” hơn tác phẩm này: nhà giáo, nhà phân tâm học, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử khoa học… bởi vậy, đây cũng là tác phẩm độc đáo nhất, không những của ông, mà còn của cả thư tịch khoa học luận.
Và nếu tư duy các thể con người phát triển theo một mô hình thu nhỏ của lịch sử tư duy của loài người; thì những chướng ngại nhận thức mà Bachelard chỉ ra cho khoa học thế ỷ 18 vẫn còn trong tâm lý con trẻ (và ít nhiều trong cả những người khôn có một hiểu biết vững vàng về tinh thần khoa học hiện đại) ngày nay. Do đó, tác phẩm của Bachelard không chỉ có giá trị nhận thức luận, mà còn có giá trị bổ túc kiến thức rất cụ thể cho ngành sư phạm, cho các thầy giáo tiểu học và trung học, cho các trách nhiệm truyền thông về khoa học. Tựa đề Sự hình thành tinh thần khoa học của tác phẩm phải được hiểu theo hai nghĩa, ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa sư phạm.
Đến đây, tôi xin nêu một hướng nghiên cứu có lẽ có ích và mới cho các nhà khoa học luận Việt Nam: trong các chướng ngại này, điều gì là phổ quát cho con người (thí dụ như libido)? Dĩ nhiên, ở đây nó mang hình thức văn hóa Âu Tây đặc thù, vậy ở Á Đông nó mang hình thức nào tùy thuộc hẳn vào văn hóa Âu Tây? Như thế có chướng ngại nhận thức đặc thù nào tùy thuộc hẳn vào văn hóa Á Đông? Biểu hiện của những chướng ngại nhận thức có tính tiền khoa học này trong tư duy người Việt hiện nay cụ thể là những gì? Có lẽ đây không phải những câu hỏi viển vông.
Sách có 12 chương thì ngoài hai chương mở đầu và kết luận, Bachelard dành 10 chương cho 10 chướng ngại nhận thức khác nhau. Để tìm ra những chướng ngại đó và tìm hiểu qua cơ chế nào đã tác động đến việc nghiên cứu khoa học, Bachelard đã dựa trên sự phân tích một thư tịch đồ sộ của các tác giả tiền khoa học, và ngay cả của những nhà khoa học tiên phong lớn như Buffon, Descartes, Franklin, Lavoisier, Volta… trong chừng mực mà tư duy khoa học của họ vẫn chưa thoát ra hẳn khỏi những chướng ngại. Chính vì thế, qua đó người đọc cũng khám phá những nét thú vị của tư tưởng tiền khoa học tại Châu Âu, những nét này không khỏi khêu gợi sự liên tưởng về các dấu vết hiện nay vẫn còn nằm sâu trong nền văn hóa này; cũng không kém phần thú vị khi người ta nghĩ đến những tương đồng với nhiều nét của tư duy Á Đông, có tính tiền khoa học rõ rệt. Phân tích của Bachelard sử dụng công cụ lý luận của phân tâm học luận của Freud theo nghĩa Freud chỉ nghiên cứu phân tích tâm lý trong quan hệ người với người, Bachelard đêm những phương pháp phân tâm luận áp dụng cho quan hệ giữa người và tự nhiên.
Ngoại trừ những trường hợp đơn lẻ, hai thí dụ được Bachelard tập trung mổ xẻ là ngành giả kim – hóa học, và sự phát triển của điện học.
Trong mười chướng ngại nhận thức, có thể gom lại bốn chướng ngại đầu tiên, từ Chương II đến Chương V là: 1) Chướng ngại của kinh nghiệm trực quan; 2) Chướng ngại của hiểu biết tổng quát; 3)Chướng ngại của ngôn ngữ; và 4) Chướng ngại của hiểu biết thống nhất và thực dụng. Có lẽ chúng đều đi đến từ rất sâu thẳm trong quá trình hình thành con người: nhận diện thế giới vật chất qua kinh nghiệm thực tiễn, mô tả nó qua ngôn ngữ rồi chịu ảnh hưởng ngược lại của ngôn ngữ, và khái quát hóa quá sớm.
Chương VI nói về 5) Chướng ngại duy thể chất, có lẽ đặc thù hơn trong một nền văn hóa tiếp thu từ Hy Lạp bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của một thể chất. Người ta không đặt nặng hoặc chưa hình thành rõ rệt ý tưởng về “hiện tượng như một quan hệ” giữa các thực tế.
Trong bốn chương tiếp theo VII đến XI: 6) Phân tâm luận về người duy thực; 7) Chướng ngại vật linh; 8) Huyền thoại về sự tiêu hóa; và 9) Libido và hiểu biết khách quan; tác giả vận dụng những phương pháp của phân tâm học để nêu rõ tại sao có những sai lạc trong những tiếp cận mang tham vọng khoa học nhưng không đạt được tính khoa học cần thiết: đó là do ảnh hưởng bị giấu kín của những động lực có tính bản năng của con người, như bản năng chiếm lĩnh, sự phóng chiếu vật linh, bản năng đói, và libido.
Chương XI, 10) Những chướng ngại cho sự hiểu biết định lượng, đề cập đến hiện tượng định lượng hóa quá đà, thành vô nghĩa; mở rộng ra, đó là ý tưởng tuyệt đối hóa việc áp dụng các quy luật khoa học. Có thể hiểu đây là trường hợp sự hiểu biết khoa học đã cũ có thể trở thành một chướng ngại cho một nhận thức khoa học mới.
(theo dịch giả Hà Dương Tuấn)