Ông tổ của ngành Vi sinh vật học
Năm nay vừa tròn 120 năm ngày Louis Pasteur (1822-1895) khám phá ra văcxin phòng bệnh dại và cũng là kỷ niệm 110 năm ngày mất của nhà bác học thiên tài này.
Louis Pasteur sinh ngày 27-12-1822 tại vùng Dole (Jura, nước Pháp). Bố ông sau khi giải ngũ từ quân đội trở về chỉ làm nghề thuộc da. Gia đình hồi ấy rất nghèo khổ nhưng ông rất muốn cậu con trai của mình học giỏi và trở thành một thầy giáo. Ông nghĩ rằng làm thầy giáo thì nhàn hạ hơn nghề thuộc da của ông. Lên 9 tuổi Pasteur vào học tại Trường Arbois và tới năm 17 tuổi thì vào học tại Trường Royal de Besançon. Thuở nhỏ Pasteur rất mê học vẽ và ai cũng tưởng sau này cậu bé này sẽ trở thành một hoạ sĩ. Năm 19 tuổi đỗ Tú tài Văn chương và trở thành người phụ giảng ở trường trung học này. Năm 20 tuổi Pasteur nhận thêm bằng Tú tài Toán tại Dijon.
Năm 1943 Pasteur thi đỗ vào trường Cao đẳng Sư phạm danh tiếng ở Paris (École normale superieure-ENS) và tốt nghiệp Cử nhân khoa học vào năm 1945. Ông được cử làm giáo viên của Trường Trung học Tournon ở Ardèche, nhưng ông lại ham mê nghiên cứu khoa học và xin ở lại Trường ENS để làm kỹ thuật viên hoá học. Ông được làm việc tại phòng thí nghiệm của Viện sĩ Balard và ở đó ông đã có dịp gặp giáo sư Laurant. Vị giáo sư này nhìn thấy ở Pasteur có một tài năng tiềm ẩn và nhận làm trợ lý nghiên cứu cho mình. Chẳng bao lâu Laurant được bổ nhiệm về phòng thí nghiệm của Duma nhưng Pasteur vẫn ở lại phòng thí nghiệm để hoàn thành nốt bản luận văn về tinh thể.
Năm 1847, ở tuổi 25, Pasteur nhận bằng Tiến sĩ khoa học. Năm 1848 ông được cử làm giáo viên Vật lý ở Trường Trung học Dijon và sau đó được chuyển về Đại học Strasbourg để làm Giảng viên dự khuyết của Đại học danh tiếng này. Ông bắt đầu nghiên cứu về hiện tượng lưỡng hình (nhị dạng, dimorphisme) trong hoá học. Ông đã thành công trong phát hiện lịch sử ra hiện tượng tăng đôi trở lại của Tartrate natrium và tartrate ammon. Năm 1849 ông kết hôn với cô Marie Laurent- con gái của vị Hiệu trưởng Trường Đại học Strasbourg. Ông bắt đầu nghiên cứu về đặc điểm của 2 acid tạo ra acid racemic.
Năm 1851 ông công bố nghiên cứu về Aciad aspartic và ma thuật. Măm 1852 công bố các nghiên cứu mới về những phản ứng có thể tạo ra các tinh thể, về thành phần hoá học và ý nghĩa của sự quay cực.
Năm 1853 ông được nhận giải thưởng của Hội Dược học Paris về việc tổng hợp acid racemic. Ông đã khám phá ra việc chuyển hoá acid tartric thành acid racemic và khám phá ra acid tartric không hoạt tính.
Năm 1854 ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Khoa Khoa học Tự nhiên ở Đại học Lillze.
Từ năm 1855 ông chuyển sang nghiên cứu về quá trình lên men và công bố nghiên cứu về rượu amylic.
Năm 1856 nghiên cứu về lên men etylic. Năm 1857 ông được bổ nhiệm làm quản lý ENS và làm Giám đốc nghiên cứu khoa học của trường đại học này. Ông công bố các nghiên cứu về quá trình men rượu. Năm 1858 ông xây dựng phòng thí nghiệm của mình tại tầng trên cùng của ENS ở phố Ulm. Ông bắt đầu tham gia cuộc tranh luận về thuyết tự sinh. Thời đó nhiều nhà khoa học cho rằng sự sống tự sinh ra: giòi sinh ra từ thịt bò ôi, chuột sinh ra ... áo bẩn và lúa mạch nhét trong một cái lọ... Việc phát hiện thấy vi sinh vật ở khắp mọi nơi càng là cho người ta tin vào thuyết tự sinh. Chỉ cần với các bình cổ cong đơn giản ông đã chứng minh nước thịt đã đun sôi , mặc dầu không khí vẫn đi qua được cái cổ cong (bụi bậm bị giữ lại tại cổ bình) nhưng sau đó không xuất hiện vi sinh vật trong nước thịt. Nếu bẻ gẫy cái cổ cong đi thì sẽ thấy nhiễm khuẩn ngay. Năm 1862 ông đã được nhận giải thưởng ALHUMBERT của Viện Hàn lâm Khoa học (HLKH) về chuyện này. Năm 1859 ông được nhận giải thưởng Sinh lý học thực nghiệm của Viện HLKH đối với các nghiên cứu về lên men. Hai năm sau ông nhận tiếp giải JECKER cũng của Viện HLKH.
Trong những năm 1861-1862 ông đã công bố các nghiên cứu về việc rượu vang xuất khẩu bị chua là do tác động của các vi khuẩn axetic. Năm 1862 ông được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học (Académie des science). Năm 1863 Napoléon III yêu cầu ông nghiên cứu về các bệnh ở nho, về ảnh hưởng của ôxy đối với quá trình sản xuất rượu vang. Cũng năm này ông được bổ nhiệm làm Giáo sư Địa chất-Vật lý-Hoá học ở Trường Mỹ thuật (!). Năm 1864 ông xây dựng một phòng thí nghiệm ở Arbois để nghiên cứu về rượu vang. Ông công bố các nghiên cứu về bệnh của tầm và phương pháp khử trùng Pasteur (Pasteurization) - tức là khử trùng ở 63oC/30ph hay 72oC/15 giây. Năm 1866 ông công bố tác phẩm Nghiên cứu về rượu vang. Năm 1867 ông xây dựng Phòng thí nghiệm sinh lý-hoá học tại trường ENS. Cũng năm này ông đã được phong hàm Giáo sư Hoá học hữu cơ của Đại học Sorbone và nhận Giải thưởng lớn (Grand Prix) về các nghiên cứu rượu vang. Năm 1868 ông nhận bằng Bác sĩ Y khoa ở Đại học Bonn (Đức) và được thưởng Bắc đẩu bội tinh hạng Ba. Sau đó thật không may, ông bị liệt nửa người trái. Cũng năm này ông công bố các nghiên cứu về giấm. Năm 1870 ông nghiên cứu về các bệnh ở tằm. Năm 1871 bắt đầu nghiên cứu về bia. Năm 1873 ông được bầu vào Viện Hàn lâm Y học (Académie de Médecine). Năm 1876 ông công bố các nghiên cứu về bia.
Năm 1877, ông nghiên cứu về bệnh than và sự nhiễm trùng máu. Năm 1878 ông công bố nghiên cứu Lý thuyết về mầm bệnh và việc ứng dụng chúng trong y học và trong phẫu thuật, nghiên cứu về bệnh dịch tả gà, nghiên cứu về sự hoại thư, về sốt hậu sản. Cũng năm này ông được trao tặng Bắc đẩu bội tinh hạng hai. Năm 1879 ông nghiên cứu về bệnh Dịch hạch và khám phá ra năng lực gây miễn dịch đối với các canh trùng giảm độc. Năm 1880 được bầu làm thành viên của Trung ương Hội Thú y. Năm 1880 lần đầu tiên nghiên cứu về văcxin dại, văcxin đầu tiên chống bệnh do virút gây ra. Ông biết rằng trong điều kiện lúc bấy giờ mầm bệnh này chưa có thể thấy được dưới kính hiển vi cũng chưa có thể phân lập thuần khiết được. Bằng thực nghiệm trên chó và thỏ ông biết mầm bệnh có mặt trong nước dãi và hành tuỷ của chó dại. Bằng cách nhân mầm bệnh trên óc thỏ qua nhiều lần, ông đã rút ngắn thời gian ủ bệnh xuống chỉ còn 7 ngày, sau đó đã làm giảm độc tính đi bằng cách để khô tuỷ của thỏ trong 12 ngày liền.
Năm 1881, ông công bố các nghiên cứu về bệnh sốt vàng và thành công trong việc chế tạo văcxin chống bệnh than. Cũng năm này ông được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp (Académie française) và được thưởng Bắc đẩu bội tinh hạng Nhất. Năm 1882, nghiên cứu về bệnh Đóng dấu ở lợn và năm 1883 thì chế tạo ra văcxin phòng bệnh này.
Năm 1884 ông có những công bố đầu tiên về bệnh dại và tham gia Hội nghị quốc tế ở Copenhagen với các công trình của mình về vi khuẩn gây bệnh và các vắcxin chống virút. Ông đưa ra được các nguyên tắc chung để sản xuất văcxin phòng chống bệnh virút. Ngày 6-7-1885 lần đầu tiên thành công trong việc sử dụng văcxin chống bệnh dại ở người. Đó là trường hợp cháu bé Joseph Meister, cháu bé 9 tuổi bị chó dại cắn tới 14 vết rất nặng trên tay. Mặc dầu ông đã thử nghiệm nhiều lần văcxin của mình trên động vật nhưng ông rất hồi hộp khi phải bắt buộc dùng trên cơ thể người. Trước đó trong một bức thư gửi cho con trai mình, ông đã tâm sự: Chắc con thừa biết rằng con người và con vật có nhiều điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau... Con thử tưởng tượng xem trái tim đau khổ của bố sẽ bị vò nát, cấu xé đến chừng nào nếu như bố phải chứng kiến một nhân mạng phải hy sinh vì liều văcxin của bố. Nhưng tới ngày 11-7-1885 ông đã sung sướng viết cho con mình báo tin để con biết Joseph Meiter đã ra viện, ba vết tiêm sau cùng của cháu ấy hơi bị tấy đỏ nhưng không can gì. cháu vẫn ăn ngon, ngủ yên, không sốt... Có thể nói đây là một thành tựu y học ở thế kỷ này. Bố rất tiếc là con không có mặt ở đây để chứng kiến. Ngày 26-10-1885 ông báo cáo về thành công này trước Viện HLKH Pháp, sau 3 tháng và 21 ngày nhưng Meister vẫn khoẻ mạnh như thường. Chủ tịch Viện HLKH Pháp đã xác nhận: Vinh quang thay cho nền khoa học Pháp khi đã có được tiến bộ y học này - phát minh ra phương pháp chống bệnh dại - một bệnh khủng khiếp mà bao nhiêu thế kỷ nay chưa ai thoát khỏi tử vong. Từ hôm nay nhân loại đã được trang bị một vũ khí để chống lại căn bệnh quái ác này. Chúng ta phải biết ơn Pasteur - một con người luôn cố gắng vượt qua bệnh tật để đạt đến kết quả tốt đẹp này. Không ai ngờ rằng sau những lời đánh giá khách quan và đầy tâm huyết ấy, vị Chủ tịch Viện HLKH này đã từ trần vào ngày 29-11-1885. Pasteur được bầu làm Thư ký vĩnh viễn của Viện HLKH Pháp nhưng ông lại bị liệt nốt nửa người phải. Cũng trong năm này ông tham gia vào thực nghiệm dùng loại vi khuẩn để tiêu diệt đàn thỏ sinh sản quá mức trong môi trường tự nhiên ở Australia.
Năm 1888, Viện Pasteur được khánh thành ở Paris. Sau đó các Viện Pasteur lần lượt mọc lên ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có các Việt Nam và hàng chục triệu liều văcxin chống dại đã được sản xuất.
Vào lúc 4 giờ 50 ngày 28 tháng 9 năm 1895 Pasteur qua đời sau một cơn urê huyết cấp tại Villeneuve-l’Étang.
Ông đã là người suốt đời xây dựng cho một ngành khoa học non trẻ- Vi sinh vật học và trên mọi lĩnh vực- khoa học cơ bản, phục vụ y học, thú y học, nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm. Có nhà khoa học đã nói: Hình như hễ Pasteur đụng vào bất cứ lĩnh vực khoa học nào thì từ lĩnh vực đó sẽ bật lên ngay những sáng tạo vĩ đại.
Những người kế tục sự nghiệp của ông ở Viện Pasteur Paris đã đưa Vi sinh vật học trở thành chỗ dựa cơ bản cho Công nghệ sinh học - một trong 2 lĩnh vực tiêu biểu (cùng với Vi điện tử) trở thành Làn sóng thứ năm trong lịch sử phát triển khoa học và công nghệ. Các nhà khoa hoc của Viện này đã thu được tới 5 giải thưởng Nobel - một thành tích ít có Viện nghiên cứu nào có được. Đó là Alphonse Laveran (1907), Elio Metchnikoff (1908), Jules Bordet (1919), Charles Nicolle (1928), Daniel Bovet (1957), André Lwoff , FranÇois Jacob và Jacques Monod (1965).
Bản quyền[sửa]
GS. TS. Nguyễn Lân Dũng. Tổng thư ký Hội Vi sinh vật học Việt Nam
Xem thêm[sửa]
- Louis Pasteur trên Wikipedia tiếng Anh