Ứng dụng các Nguyên Lý Phật giáo vào Nghiên Cứu và Phát Triển
Các
bạn
thân
mến,
Đạo
Phật
đã
hình
thành
và
phát
triển
hơn
2500
năm,
cho
đến
nay,
tôn
giáo
này
đã
đang
được
sự
chú
ý
nghiên
cứu
ứng
dụng
của
các
nhà
khoa
học.
Một
trong
những
lý
do
căn
bản
là
vì
đạo
Phật
đã
có
những
nguyên
lý
phù
hợp
với
lập
luận
và
với
nhiều
tôn
chỉ
khoa
học.
Nếu
chỉ
đứng
phía
bên
ngoài,
do
số
lượng
kinh
luận
khổng
lồ,
chỉ
riêng
một
Phật
tử
tu
học
cả
đời
cũng
không
hết,
huống
chi
một
người
thường
nếu
không
bỏ
nhiều
thì
giờ
tìm
hiểu
thì
khó
lòng
rút
ra
hết
được
ý
nghĩa
thực
dụng
từ
các
nguyên
lý
đó.
Tuy
nhiên,
với
nỗ
lực
kiên
trì
người
làm
khoa
học
có
thể
tìm
thấy
nhiều
điểm
lý
thú
trong
đó
kể
cả
việc
vận
dụng
các
nguyên
lý
của
Phật
giáo
trong
công
tác
nghiên
cứu
và
phát
triển.
Trong
phạm
vi
bài
viết
này,
LĐ
xin
chia
sẻ
với
các
bạn
một
vài
kinh
nghiệm
rất
nhỏ
đã
được
thực
nghiệm
thành
công
trong
các
lãnh
vực
thuần
túy
khoa
học
(tưởng
chừng
không
dính
dáng
gì
đến
Phật
giáo)
cũng
như
nêu
lại
một
vài
ý
tưởng
về
"khoa
học
Phật
học".
Nhiều
ý
tưởng
liên
quan
đến
Phật
học
và
khoa
học
nêu
ra
trong
bài
viết
này
được
trích
ly
từ
các
bài
giảng
về
Phật
học
của
đức
Đạt-lai
Lạt-ma.
Lưu ý: Các bài viết có liên quan đến Phật giáo do tác giả Làng Đậu khởi đăng trên Internet cho phép người đọc được tự do in lại hay phổ biến nguyên văn mà không có sự cắt xén để tránh gây ngộ nhận hiểu sai khi câu văn đã bị đưa khỏi ngữ cảnh. Chân thành cảm tạ.
Mục lục
- 1 Dẫn nhập: Quán Chiếu Từ các Lời Dạy của Đức Thích-ca Mâu-ni
- 2 Nguyên lý "Tứ Pháp Y"
- 3 Bốn Nguyên lý trong lập luận
- 4 Tri thức -- Tri thức dựa vào sự xác nhận -- Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học
- 5 Vượt khỏi lí luận -- Thực Nghiệm Khoa học -- Thực nghiệm chứng ngộ
- 6 Các Thí Dụ Vận Dụng Nguyên Lý Phụ Thuộc vào Nghiên Cứu Thiết Kế
- 7 Lời Kết
- 8 Chú thích
- 9 Tài liệu tham khảo
- 10 Xem thêm
Dẫn nhập: Quán Chiếu Từ các Lời Dạy của Đức Thích-ca Mâu-ni[sửa]
- Có lẽ cách tiếp cận trực tiếp nhất là vào đề với lời dạy của đức Phật:
- "Này các tỳ-kheo! Cũng như người khôn ngoan chỉ chấp nhận vàng sau khi đã thử nghiệm bằng cách nung nóng, cắt gọt, và nén dập nó, những lời của ta cũng vậy, chỉ được chấp nhận sau khi đã kiểm tra chúng, chứ không phải do sự tôn kính (đối với ta).” [1]
Như vậy, rõ ràng có một sự tương đồng giữa việc học tập hay nghiên cứu khoa học và việc tu học trong Phật giáo: Thái độ đúng đắn trước tiên nên có ở đây phải bắt đầu từ sự rà soát, kiểm tra lại mức hợp lý của các nhận định -- không phải tiếp nhận nó với một tư thế "tín tâm hoàn toàn". Như vậy, "giáo điều" không phải là điều được tiếp nhận trong Phật giáo.
Mọi lý thuyết khoa học ngày nay từ toán học cho đến tâm lý học và y học, đều phải dựa trên những nền tảng rất cơ bản hợp lý được nhiều người chấp nhận rộng rãi. Cũng vậy, việc giảng dạy của nguyên lý quan trọng nhất mà đức Phật truyền lại đó là nguyên lý "Tứ Diệu Đế"[2] cũng dựa trên những tiền đề cơ bản đó là luật vô thường và thuyết duyên khởi.
Một cách rất sơ lược, thì luật vô thường cho rằng vạn vật (kể cả thế giới tâm lý và vật chất) đều chuyển biến không ngừng nghĩ hể có sinh thì có diệt. Điều này thì rõ ràng không ai có thể chối cãi trong thế giới vật lý từ vi mô cho đến vĩ mô. Nó được mặc nhiên thừa nhận trong mọi lý thuyết khoa học.
- Tiếp đến là thuyết duyên khởi.
Nội dung đơn giản đầu tiên trong thuyết duyên khởi (pratītyasamutpāda) là: sự có mặt của tất cả mọi sự việc và hiện tượng trong vũ trụ đều chỉ là kết quả của sự tương tác và hợp thành giữa nhiều nguyên do (nhân) và điều kiện (duyên). Ở đây, cho đến nay tiền đề này vẫn nghiễm nhiên được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong mọi ngành khoa học.
Hệ quả, trực tiếp của nội dung trên là việc phủ nhận các hiện tượng hay sự việc tự nó tồn tại, hay tự nó sinh ra hay được tạo thành một cách độc lập hay cô lập hoàn toàn mà không phụ thuộc vào các nguyên nhân hay điều kiện khác. Như vậy điều này gián tiếp phủ nhận sự tồn tại của một đấng sáng thế có mặt mà không có nguyên do.
Hệ quả thứ nhì thấy được từ kết luận trên là dòng sinh diệt liên tục (continuum) của mọi sự vật hiện tượng đều không thể có sự khởi đầu và không thể có sự kết thúc. Như vậy, nếu một lý thuyết nào đó cho rằng có đúng một sự khởi đầu (như là sự khởi đầu của vũ trụ) thì chắc chắn thuyết đó mâu thuẫn với Phật học. Vậy thì ta sẽ so sánh thế nào với một với lý thuyết cho rằng toàn thể vũ trụ khởi sinh từ một vụ nổ lớn? Tức là cái có sinh diệt bắt đầu từ ... không có gì hết ở thời điểm gốc 0. Tuy nhiên, đến nay chưa ai có thể kiểm định được "thời điểm tự khởi" của vũ trụ theo các lý thuyết kiểu này. Ngược lại, nếu chấp nhận có thể có nhiều hơn một vụ nổ lớn (tức là có thời điểm trước khi vũ trụ này hình thành) như nhiều lý thuyết vật lý hiện nay đang phát triển thì tình hình khác hẳn, điều này sẽ không còn có mâu thuẫn với Phật giáo.[4]
Một bước tiếp, khi áp dụng lập luận của thuyết duyên khởi và luật vô thường ở mức độ vi tế của vật chất thì mọi sự vật và hiện tượng thay đổi liên tục trong từng đơn vị nhỏ nhất của thời gian. Điều này, cho đến nay không hề mâu thuẫn gì với lý thuyết vật lý ở mức vi mô. Tiếp đó, theo định nghĩa về tính không của đại sư Long thọ:[5]
- "Sự vật nào có nguồn gốc phụ thuộc, tôi gọi là không"
Với định nghĩa về tính không này cùng với tính chất thay đổi liên tục của vật chất trong mức vi tế trong từng thời điểm, cho thấy rằng người ta không thể xác định được "đối tượng tĩnh thực sự" của nhận thức (hay còn gọi là sự thiếu vắng của đối tượng nhận thức). Sự thiếu vắng này rất tương tự với "nguyên lý bất định" đã được phát biểu bởi nhà vật lý Werner K. Heisenberg (1901-1976 -- Nobel Vật lý 1932, người được xem là một trong những cha đẻ của Vật lý Lượng tử).
Như vậy với vài điểm cứu xét trên, ta có thể thấy rằng cùng với các lập luận chặt chẽ và thiền định mà Phật giáo "tìm ra" được nhiều đặc tính của thế giới vật chất mà không cần đến các dụng cụ đo đạc. Đây cũng chỉ là những kết luận rất "bề mặt" có thể xem như là các "ứng dụng" sơ khởi từ các giáo Pháp của đạo Phật.
Xét sâu hơn một tí về mặt lập luận, đức Phật còn đưa ra nhiều nguyên lý khác. Để minh hoạ, xin trình ra đây vài nguyên lý lớn và xem nó như là công cụ hay phương pháp để tìm hiểu phán đoán sự việc (Ở đây là giáo Pháp).
Nguyên lý "Tứ Pháp Y"[sửa]
Nhằm giúp một hành giả có thể tu học giáo Pháp được đúng đắn không bị che mờ hay lầm lẫn bởi cách dụng văn hay lời giảng, người viết văn hay bởi ý nghĩa từ câu viết, bài viết hay phát biểu. Đức Phật đã đưa ra 4 hướng dẫn liên hệ nhau gọi là "Tứ Pháp Y" có thể tìm thấy trong Kinh Duy Ma Cật và Kinh Đại Bát Niết Bàn bao gồm:
- Y pháp bất y nhân: Là tin theo giáo pháp chứ không tin y theo người giảng Pháp, cho dù người đó có danh tiếng, địa vị cao, nếu nói pháp không đúng cũng không nên tin theo. Dù người nói pháp đúng nhưng không có địa vị cao, không có danh tiếng thì nên tin theo. Như vậy điều này loại trừ lòng tin kiểu "thành kiến" hay "mù quáng". Tin vào người giảng mà không dựa trên một cơ sở nền tảng.
- Y nghĩa bất y ngữ: Ngữ là lời nói, nghĩa là cái ý. Như thế, trong một kinh văn điều quan trọng là nắm được ý của người viết không nên câu nệ vào lời nói giọng văn. Điều này giúp loại ra được chủ nghĩa hình thức. Tức là, việc học tập/nghiên cứu nên chú trọng vào nội dung, và chức năng mà người trình bày bao hàm, tránh sa đà vào cách trình bày hay hình thức mà qua đó ý tưởng được phô bày hay ẩn ý.
- Y trí bất y thức: Thức là các giác quan hay cơ sở nhận thức thông qua tai mắt, mũi, lưỡi, thân thể và ý tưởng. Trí là tri thức tuyệt đối (tuệ giác). Như vậy, xét cụ thể hơn ra, qua các cơ quan hay cơ sở của nhận thức thì vẫn còn phải chịu ảnh hưởng bởi điều kiện và kinh nghiệm của từng cá nhân làm chủ thể của nhận thức nên vẫn có thể sai biệt với thực chất của tri thức tối hậu. (Chẳng hạn như mắt người chỉ có thể nhận thấy được một khoảng phổ rất nhỏ ánh sáng phản xạ lại từ đối tượng vật chất và do đó nhận thức chỉ về khía cạnh này thôi cũng đã có thể bị sai biệt hay khiếm khuyết). Lời giảng này cho thấy người học hỏi cần ý thức để loại bỏ những "biểu kiến" hay nhận thức có thể bị ảnh hưởng bởi các thức gây ra.
- Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa: Theo cách Phân định của Phật thì vì tùy theo trình độ hiểu biết và điều kiện (duyên) của đối tượng mà một thuyết giảng có thể mang ý nghĩa rốt ráo (liễu nghĩa) hay có tính tương đối (bất liễu nghĩa). Như vậy, đứng về mặt người học hỏi, một người cần phải phân tích xem ý nghĩa được giảng nằm trong phạm vi như thế nào, trong điều kiện môi trường và trình độ nào, đối tượng nào, góc độ nào để có thể hiểu được sự kiện được giảng. Có vậy để tránh được sự hiểu không rõ hay không chuẩn xác.
Chúng ta hoàn toàn có thể mượn các nguyên lý trên vào trong việc học hỏi và nghiên cứu khoa học. Qua đó, người đọc và phân tích một cách khách quan về một tài liệu, bài giảng, hay một lý thuyết để thấy được đâu là ý tưởng đúng đắn đâu là nhận định từ do cá nhân người viết và những lập luận đó đúng hay sai trong những điều kiện gì, môi trường nào.
Bốn Nguyên lý trong lập luận[sửa]
Ngoài ra, các công cụ lập luận thường thấy trong Phật giáo được dùng để chứng minh và phản bác cũng tìm thấy trong khoa học (nhất là khoa toán logic). Đa số các lập luận được dùng trong Phật học là để nhận chân các lời giảng, các biện minh, các luận điểm đâu là lý lẽ tuyệt đối đâu là tương đối và đâu ... không phải là Phật giáo. Đa số các lập luận dùng hai phương pháp cơ bản là Biện Minh Suy Diễn (trong đó, Tam Đoạn luận rất thường được dùng) và Biện Minh Phản Chứng (mà thường thấy nhất là lối Quy Mậu biện chứng).[6] Ngoài ra, đôi khi các lập luận khoa học còn "nghiễm nhiên" sử dụng các phương pháp khác mà Phật giáo đã nêu rất rõ trong các nguyên lý của mình.
Trong chủ đề này, chỉ nêu lại 4 nguyên lý của lập luận có thể áp dụng:
- Nguyên lý về bản chất: Sự thật là có các sự vật tồn tại, và rằng các nguyên nhân dẫn tới các hậu quả. Ta hầu như có thể nói rằng, nguyên lý này ngụ ý một sự chấp nhận các quy luật tự nhiên. Thí dụ: Bản chất của lửa là sự toả nhiệt và bản chất của nước là tính chất lưu chuyển.
- Nguyên lý về năng lực (hay còn gọi là nguyên lý thành tựu công năng): Nguyên lý này đề cập đến cách thức mà các sự vật có khả năng tạo ra những kết quả nào đó tùy theo bản chất của chúng. Như lửa gây cháy, hoặc nước gây ướt. Nguyên lý này cũng gắn liền với sự phụ thuộc của bất kỳ loại hiện tượng nào vào chính các thành phần và thuộc tính của nó, hoặc phụ thuộc vào các thực thể khác. Nguyên lý về năng lực gắn liền với hiệu quả nguyên nhân của một hiện tượng cụ thể, chẳng hạn như khả năng của một hạt bắp tạo ra một thân cây bắp.
- Nguyên lí về duyên khởi (hay còn gọi là nguyên lý phụ thuộc): Có một sự phụ thuộc tự nhiên giữa các sự vật và hiện tượng, giữa các nguyên nhân và kết quả. Mọi kết quả đều phụ thuộc vào nhân duyên của nó. Nguyên lý này cho thấy sự phụ thuộc của các hiện tượng kết hợp vào các nguyên nhân của chúng, chẳng hạn như sự phụ thuộc của nhãn thức vào thần kinh thị giác.
- Nguyên lý chứng minh hợp lý: Dựa vào điều này thì điều kia chắc chắn phải như thế; và dựa vào điều kia thì điều này hẳn phải là như vậy (Nguyên lý này bao hàm các phương pháp lập luận lô-gíc như đã nêu trên). Nguyên lý chứng minh hợp lý bao gồm ba phương thức để người ta xác nhận sự tồn tại của bất kì điều gì - đó là: trực tiếp nhận thức, suy đoán/suy luận chắc chắn, và tri thức dựa vào sự xác nhận. Riêng bộ phận phân tích suy đoán dựa vào sự xác nhận có thể bị nhiều phản bác từ phía người làm nghiên cứu khoa học và điều này cũng sẽ được bàn thảo sâu hơn về những liên hệ tới bản thân khoa học hiện đại trong phần sau.
Theo nhận định của đức Đạt-lai Lạt-ma thì:
- "Tôi thấy rằng, cách nghiên cứu theo khoa học [đặc biệt là khoa học tự nhiên] phần lớn dựa vào ba cách chứng minh: (1) chứng minh bằng cách chú ý đến thể tính mà qua đó, những đặc tính cơ bản của đối tượng được nghiên cứu; (2) chứng minh qua sự chú ý đến thành tựu công năng, đặc biệt là nghiên cứu xem đối tượng có thể mang đến hiệu quả nào với những đặc tính cơ bản sẵn có; và (3) chứng minh bằng cách chú ý đến những mối quan hệ duyên khởi và ở đây, những nhân tố hình thành đối tượng được tìm hiểu. Chúng được xem như những phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học. Và nếu như vậy thì tất cả sáu phương pháp nghiên cứu được nêu ra đã dung hàm được cả hai, nghiên cứu khoa học cũng như nghiên cứu tâm đạo"[7]
Tri thức -- Tri thức dựa vào sự xác nhận -- Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học[sửa]
Như có nhắc trong phần 3. Một cách phân chia trong Phật giáo về nhận thức thành ba loại dựa trên mức độ "khả kiến" của đối tượng là:
- Nhận thức trực tiếp: Loại nhận thức này có thể kiểm nghiệm ngay lập tức bằng các giác quan và có thể được chứng minh/chứng nghiệm mà không cần thêm bất kì một công cụ hay suy diễn nào. Chẳng hạn như sự hiện hữu của 1 con voi trong gian phòng -- Tất nhiên, người ta có thể khẳng định hay phủ nhận trực tiếp sự kiện này mà không cần phán đoán hay bất kì công cụ nào. Tuy nhiên, xa hơn một tí có những sự việc tồn tại, nhưng chỉ vì nhận thức loại này không thấy được nhưng không có nghĩa là chúng không tồn tại. Chẳng hạn sự hiện hữu của một con vi trùng trong phòng. Không phải vì mắt ta không thấy mà nó không hiện hữu. Một thí dụ thứ ba về việc này, nhận thức về sự hiện hữu của chiếc xe hơi chạy bên ngoài gian phòng. Vấn đề ở chỗ tuy ta không thấy trực tiếp nhưng "dấu vết" bản chất trực tiếp của chiếc xe hơi vẫn có thể cho phép ta nhận định chính xác là nó hiện hữu thông qua các đặc tính, chẳng hạn như tiếng kèn xe và tiếng máy nổ thực sự đặc trưng khiến người trong phòng qua thính giác không thể bị nhầm lẫn với các đối tượng vật chất khác. Trong thí dụ này thì âm thanh trực tiếp phát ra từ xa đóng vai trò chính cho sự nhận thức.
- Nhận thức qua suy đoán hợp lý nhưng không trực tiếp: Loại nhận thức này khó thể có được đối với một người nếu người đó không dùng đến các "công cụ" suy luận lô-gíc chặt chẽ hay các công cụ thực nghiệm đáng tin cậy. Hiện tượng này được xem như là “hiện tượng thiếu rõ ràng hơi khó nhận biết” nhưng vẫn có thể đạt tới qua sự truy cứu chặt chẽ. Như trong thí dụ bên trên thì con vi trùng có thể được nhận ra thông qua kính hiển vi. Dĩ nhiên điều cần chú ý ở đây là công cụ gián tiếp này phải là công cụ đáng tin cậy (ở đây là kính hiển vi). Hầu hết các lý thuyết khoa học đều dựa trên phương pháp này. Một khi "công cụ" không đầy đủ hay chính xác thì lý thuyết đó cũng có thể do khiếm khuyết của "công cụ" mà dẫn đến sai sót ít nhiều hay toàn bộ. Cơ học Newton là một điển hình của nhận thức loại này. Sự chấp nhận nghiễm nhiên về tính độc lập giữa không gian và thời gian[8] đã là một "công cụ" mà các nhà vật lý cổ điển dựa trên đó để hình thành hệ thống vật lý cổ điển. Thuộc tính này không chính xác đã dẫn đến nhiều điểm thiếu chính xác trong vật lý cổ điển. Đối với các hành giả thiền định thì tính không là loại tri thức thuộc loại này.
-
Nhận
thức
qua
sự
xác
quyết
của
người
khác:
Dạng
thứ
ba
của
hiện
tượng
là
các
"hiện
tượng
cực
kì
bí
ẩn",
vượt
quá
tầm
của
nhận
thức
trực
tiếp
và
suy
luận
logic
thông
thường.
Nói
chung
chúng
chỉ
có
thể
được
xác
lập
dựa
trên
sự
xác
quyết
của
người
khác
(hay
sự
khả
tín
của
kinh
điển).
Về
mặt
khách
quan,
với
cùng
một
sự
kiện,
đối
với
người
thứ
nhất
là
cực
kì
bí
ẩn
thì
đối
với
người
thứ
nhì
có
khi
chỉ
là
sự
kiện
suy
luận
nhận
thức
được
và
đồng
thời
đối
với
một
người
thứ
ba
lại
có
thể
là
trực
tiếp
nhận
thức.
Chẳng
hạn
như,
đối
với
người
mù
bẩm
sinh
thì
việc
thấy
màu
xanh
của
lá
cây
là
"cực
kì
bí
ẩn"
nhưng
lại
là
trực
tiếp
đối
với
người
thường.
Ngược
lại,
các
"màu
sắc"
hồng
ngoại
do
sự
vật
phát
ra
trong
đêm
thì
có
thể
là
loại
cần
có
"suy
đoán",
nhưng
sẽ
chẳng
cần
suy
tư
gì
đối
với
một
số
loài
vật.
Tuy vậy, điều này lại có thể bị phê phán bởi các nhà khoa học vì tính "chủ quan" của nó. Nhưng nếu khảo sát ngược lại, ngay chính bản thân khối lượng tri thức khổng lồ của khoa học ngày nay cũng được từng cá nhân, với ít nhiều lý do chủ hay khách quan khác nhau, đã tiếp nhận mà rất ít khi chúng được trực tiếp kiểm tra rà soát lại về độ tin cậy, nhất là khi các kiến thức đó được cung cấp từ các học giả các giáo sư có uy tín. Việc tiếp thu các nhận thức "bí ẩn" kiểu này đúng ra đã được dùng rất phổ biến trong giới đồng nghiệp của những người làm khoa học chủ yếu là dựa trên lòng tin. Ngay cả các lý thuyết vật lý được dựng lên thì lòng tin vào nó cũng thường là dựa vào sự phán quyết của các "cha đẻ" ra lý thuyết đó. Nó sẽ được xem là nhận thức đúng đắn cho đến khi người nào đó tìm thấy nó là sai với thực tế.
Ngược lại, từ phía Phật giáo, rõ ràng nếu đứng ở khả năng hay trình độ "chứng nghiệm" chưa đầy đủ hay chưa chín mùi thì một cá nhân không thể nào (đúng hơn là chưa đủ năng lực hay trí huệ về mặt nhận thức hay chứng ngộ) tự mình rà kiểm lại những gì mà người khác đã chứng ngộ truyền giảng cho. Lòng tin đối với vị thầy ở đây đóng vai trò như một "công cụ" khả tín. Thực vậy, không có lý do gì một người thầy chưa từng "nói sai" với mình trong khi truyền thụ những kiến thức mà mình có thể tự kiểm nghiệm lấy lại chủ ý hay lừa dối để cung ứng cho mình một sự hiểu biết sai lạc khác. Chưa kể, giới hạnh Phật giáo không cho phép bất kì Phật tử nào (kể cả chính đức Phật) dối gạt.[9] Ngoài ra, đức Phật cũng lên án việc tu học mù quáng cho thấy rõ chủ trương của Ngài (Xin xem lại Phát biểu của dức Phật trong phần dẫn nhập). Đồng thời, tôn chỉ tối cao của đạo Phật là trừ khử vô minh tức là loại bỏ những tri kiến nhận thức sai lầm hay không chính xác về thế giới thực tại ra khỏi tâm thức của cá nhân. Do vậy, xin bàn thêm, việc tìm ra một vị thầy khả tín và khế hợp với căn cơ người tu học đóng vai trò vô cùng quan trọng trong Phật giáo. Hy vọng người làm khoa học cũng có thể rút ra các bài học gần tương tự.
Như thế, ta thấy uy tín của người phát biểu nhận thức trong khoa học và trong Phật học không quá khác biệt.
Vượt khỏi lí luận -- Thực Nghiệm Khoa học -- Thực nghiệm chứng ngộ[sửa]
Trong khoa học, nếu như chỉ cần có một bằng chứng thực nghiệm (có tính vật chất khách quan) xác đáng cho thấy tính không khế hợp của một lý thuyết thì lập tức lý thuyết đó có thể bị xem như đào thải, hay ít nhất không còn được xem là chính xác đầy đủ. Như vậy, đối với khoa học thì thực nghiệm là một phương tiện kiểm nghiệm lại sự đúng đắn của lý thuyết. Phật giáo, về phía mình, việc tự thân hành giả chứng ngộ và trực tiếp đạt tới những tri kiến chân thật (tuệ giác) là mục tiêu tối hậu. Và do đó, một khi hành giả đã tự mình đủ khả năng xác quyết được các nhận thức (tri kiến) chân thực thì tất cả mọi giáo pháp được tu học trước đó đều có thể bỏ qua hay xem là thứ yếu. Lý luận giáo pháp chỉ là phương tiện để hành giả đạt tới chứng nghiệm tối hậu từ thực nghiệm.[9] Như vậy vai trò của thực nghiệm (có tính tâm lý chủ thể) trong Phật học xét ra có ý nghĩa sâu và rộng hơn cả trong khoa học.
Việc trình bày lại những điều rất cơ bản trên không phải để thuyết phục người đọc tin theo Phật giáo mà là để có một cái nhìn khách quan xem đức Phật đã xây dựng hệ thống giáo lý Phật giáo có dựa trên những điều mà chính Ngài đã chỉ dạy một cách nhất quán cho các đệ tử và có một nền tảng suy luận vững chắc hay không để từ đó rút ra được các "ứng dụng" cho riêng mình. Ngoài ra, trong lúc giáo hoá, đức Phật còn phải tùy theo căn cơ điều kiện của người nghe để đưa ra các lời thuyết thích hợp và do đó có thể tạo ra tình trạng các lời giảng trở nên khó hiểu hay trong một số trường hợp gần như mâu thuẫn. Điều này được giải thích từ tính thực dụng của giáo Pháp. Một lý thuyết quá cao siêu không phù hợp với một cá nhân thì dù có cố gắng chỉ giáo thì cũng hoàn toàn không có ích lợi.[10] Bàn thêm về việc này sẽ vượt quá nội dung bài viết.
Các Thí Dụ Vận Dụng Nguyên Lý Phụ Thuộc vào Nghiên Cứu Thiết Kế[sửa]
Phần tiếp theo sẽ là hai thí dụ cho ứng dụng thực tiễn. Hai ứng dụng này sử dụng đến đặc tính phụ thuộc nhau trong nguyên lý Duyên Khởi do tác giả bài viết thử nghiệm và đề xuất.
Giảm nhiệt cho ngôi nhà[sửa]
Ở các tiểu bang miền Nam Hoa kì như là Texas, Arizona, hay New Mexico vào mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10 nhiệt độ ban ngày trở nên rất nóng, có khi lên đến 110°F. Nhiều ngôi nhà thông thường ở đây có nhà xe và gác xép đính liền với nhà chính (thường thì gác xép sẽ ít khi được tận dụng mà chỉ để như 1 khoảng "đệm" không khí). Nhà xe và gác xép vào ban ngày thường có nhiệt độ nóng hơn nhiệt độ bên ngoài nhiều, có khi cao hơn từ 15 - 30°F. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến việc điều hoà không khí (tiêu tốn điện năng) bên trong ngôi nhà (tuỳ theo chất lượng của vật liệu cách nhiệt giữa các bức tường và trần nhà với các gian phòng).[11]
Câu hỏi đặt ra là tại sao?
Phân tích lý do: Nhà xe là nơi gần như cô lập với gian nhà bên trong và không khí bên ngoài (chỉ thông khí khi có người mở các cửa -- cũng chính lúc mở cửa như vầy thì nhiệt từ nhà xe lại tràn vào bên trong nhà). Mặt khác, gác xép tuy có một số các ống thông khói (nhằm chống gió bão) nhưng vì không có sự thông thoáng nên không khí trong gian này cũng không được lưu chuyển và do đó, tương tự như nhà xe, gác xép trở nên nóng hơn rất nhiều.
Do
các
bề
mặt
tiếp
xúc
lớn
giữa
gác
xép
và
nhà
xe
với
nhà
chính
(ngăn
bởi
bức
tường
và
trần
nhà)
và
do
nhiệt
độ
ở
hai
nơi
này
cao
hơn
nhiều
nên
chắc
chắn
ảnh
hưởng
tới
việc
tiêu
thụ
điện
năng
cho
máy
điều
hoà
không
khí
bên
trong
nhà.
Như vậy, nếu đứng trên quan điểm phụ thuộc thì các gian phòng, cấu trúc cả ngôi nhà phụ thuộc vào nhau. Nhìn rộng hơn nữa môi trường không khí bên ngoài và bên trên nóc nhà cũng tạo duyên cho nhiệt độ bên trong ngôi nhà. Như vậy, nếu cố gắng áp dụng nguyên lý phụ thuộc này sẽ có thể giải quyết được vấn đề.
Nguyên do chính là sự cô lập không gian của cả nhà xe lẫn gác xép. Nếu "hạ" được nhiệt độ hai nơi này xuống ngang bằng hay gần ngang bằng với nhiệt độ không khí lưu chuyển bên ngoài cũng đã là một bước lớn. Như vậy làm thế nào để "bẽ gãy" sự cô lập giữa hai không gian (gác xép và nhà xe) cũng như giữa hai không gian này với không khí lưu chuyển bên ngoài thì mọi việc sẽ coi như được giải quyết.
Phân tích đơn giản trên đưa đến lời giải đáp cũng tương đối đơn giản như hiệu quả. Một thử nghiệm nhỏ được tiến hành như sau:
Mở cao cửa nhà xe lên chừng 40 cm, mở hẳn cửa nối từ gác xép xuống nhà xe (qua 1 cái thang). Kết quả thật bất ngờ: Do sự chênh lệch vận tốc không khí giữa các ống thông gió trên nóc nhà và không khí bên ngoài của nhà xe, 1 luồng không khí mát hơn nhiều đã đẩy từ nhà xe thông ngược trở lên gác xép và đi khỏi các ống thông gió. Chỉ trong 10 phút nhiệt độ của cả nhà xe lẫn gác xép giảm xuống rất nhiều gần như tương đương với nhiệt độ bên ngoài.
Như vậy để giải quyết thì đề án khắc phục đơn giản nhất là: Trổ ra các "cửa thông gió" nhỏ giữa đặt trên cửa lớn của nhà xe và bên ngoài đồng thời mở thêm cửa thông gió từ nhà xe lên gác xép. Các cửa này là loại cửa kéo có thể đóng kín lại khi cần thiết. (xem hình 2).
Nguyên lý "Mật Khẩu Động"[sửa]
Trở lại một bài viết trước đây có tựa đề "Tương Tự Hoá và Cưỡng Bức Tương tự Hoá", người viết bài này đã cung ứng một thí dụ thay cho kết luận. Xin trích dẫn lại như sau:
- Trong những năm cuối cuả thập niên 90, khi Internet trở nên phổ biến thì các hiện tượng tiêu cực lợi dụng chỗ hở cuả Internet và các Hệ Điều hành đã xãy ra: Đó là việc ăn cắp tên và mật khẩu của các thành viên trong một hệ thống mạng hay e-mail. Ngoài ra, hiện tượng ăn cắp mật khẩu giữa những người làm chung một công sở cũng có thể xảy ra (nhìn trộm nguời ta login và nhớ mật khẩu để ăn cắp các nghiên cứu chẳng hạn).
- 1. Nghiên cứu đối tượng: Hệ thống Login (còn gọi là hệ thống đăng nhập):
- - Đọc user account (tên đăng nhập)
- - Đọc password (mật khẩu) và mã hoá password
- - So sánh password đã mã hoá với mã sẵn có cuả người log-in nếu đúng thì cho phép xử dụng các dịch vụ -- Sai thì loại bỏ
- 2. Xác định vấn đề:
- Hackers có thể dùng một hệ thống bao gồm nhiều computer làm việc chung với nhau tấn công vào một hệ thống password bằng cách ... "mò mẫm" (bạn đọc có thể tìm hiểu thêm các tài liệu viết về phương cách "ăn cắp" password trên mạng) -- Tức là, các computer sẽ kiến tạo vô cùng nhanh một loạt các mật khẩu bằng cách tăng tiệm biến các giá trị của mật khẩu rồi thử đăng nhập vào cho tới khi "mò ra" được cái mật khẩu đúng ... (Qúa trình này sẽ không bao giờ làm nổi ... nếu bạn làm bằng tay; tiếc thay, với vận tốc nhiều tỉ phép tính trong 1 giây thì một hệ thống máy (còn gọi là supper computer system) sẽ bẽ gãy hầu như bất kì một mật khẩu thông thường nào nếu được chạy và thử liên tục trong 7-10 ngày).
- Mật khẩu cũng có thể bị "đọc" và đem đi chỗ khác đăng nhập.
-
3.
Phân
tích
cội
rễ
của
vấn
đề:
-
- Trong thời gian mà người thành viên của một hệ thống password không đổi giá trị của mật khẩu thì "Mật khẩu là một giá trị hằng số tạm thời". Và cũng vì nó là hằng số trong 1 thời gian đủ rộng nên nó mới bị "mò" ra.
-
-
-
- Lực lượng tập hợp của các giá trị mật khẩu có thể dùng thì tối đa chỉ tương đương với lực lượng tập hợp của các số tự nhiên (nếu bạn đọc không hiểu khái niệm lực lượng thì cũng có thể bỏ qua nhận xét này).
-
-
-
- Trong thực tế thì các hằng số mật khẩu tạm thời thường không có giá trị quá đặc biệt hay quá khó mò (đa số chỉ bao gồm các kí tự trong bảng kí tự La tin ... một số có thể có thêm vài chữ số nhưng cùng không giúp gì nhiều trong việc chống hacker) -- Do đặc điểm này mà các mật khẩu có thể bị mò ra càng nhanh hơn.
-
-
-
- Truờng hợp xấu hơn là mật khẩu bị ăn cắp bởi người làm chung (công nhân quét dọn hay cộng sự viên chẳng hạn) -- Đặc điểm phân tích được là: mật khẩu bị ăn cắp sẽ được dùng đăng trên 1 máy khác với máy của người chủ (hay cùng 1 máy trong một số trường hợp người chủ máy để máy lơ đểnh) sau đó 1 thời gian (mật khẩu đã bị "nhìn lén" lúc đăng nhập).
-
- Trên đây chỉ là 4 điểm yếu quan trọng.
Trong các phân tích trên, thì điểm cốt lõi để tìm ra phương hướng giải quyết là nhìn nhận sự việc trong quan điểm của nguyên lý phụ thuộc. Lý do mà mật khẩu có thể bị "tái dụng" là vì nó được thiết kế như là một đối tượng độc lập, cô lập trong khoảng thời gian đủ lớn. Nếu Mật khẩu "vượt khỏi" sự ràng buộc về đặc tính tĩnh, độc lập thì sẽ chống được hacker dễ dàng và hữu hiệu hơn rất nhiều. Với cách nhìn này thì người thiết kế có thể có nhiều hướng giải quyết. (Thay vào đó, hãy xem password là một thưc thể (entity) phụ thuộc vào các yếu tố khác như thời gian, không gian, các đặc tính địa phương của máy, ... do đó, khi các yếu tố đó thay đổi thì giá trị của password cũng liên đới bị thay đổi):
-
Trước
đây
Microsoft
(MS)
có
đưa
ra
một
hướng
giải
quyết
là
...
dùng
hình
vẽ
hai
chiều.
Tức
là
người
login
sẽ
"vẽ
hình"
thay
vì
dùng
1
dãy
kí
tự
(string).
Theo
cách
này
thì
MS
chỉ
thay
đổi
đặc
tính
cố
hữu
1
chiều
của
mật
khẩu
sang
thành
2
chiều.
Và
dĩ
nhiên
đã
"mở
rộng"
không
gian
tĩnh
của
mật
khẩu.
Người
thiết
kế
(MS)
chắc
chắn
đã
phải
tìm
ra
sự
mối
tương
quan
chặt
chẽ
1-1
giữa
"hình
mật
khẩu"
dự
trữ
trong
trong
máy
chủ
và
hình
thực
sự
mà
người
truy
nhập
vẽ
ra.
Tức
là
về
mặt
này
họ
đã
mở
rộng
từ
cô
lập
sang
1
sự
phụ
thuộc
nào
đó.
"Hình
vẽ
mật
khẩu"
tuy
tạo
ra
chiều
hướng
rộng
rãi
hơn,
các
hệ
thống
"siêu
máy
tính"
khó
lòng
"mò
ra",
nhưng
một
khi
nó
bị
"nhìn
lén"
thì
vẫn
không
loại
trừ
được
khả
năng
bị
hacker
phá
vỡ.
Tương tự, gần đây nhiều trang WEB đòi hỏi khi truy nhập hay tạo tài khoản mới đều phải gõ thêm vào các hàng chữ ngắn đọc được từ một hình hai chiều đã bị "bóp méo" hay bị "nhiễu loạn". Ý tưởng chính của việc làm này là tăng thêm một mức độ biến động của mật khẩu (thay vì chỉ có mật khẩu thì giờ có thêm một dạng của OCR program (Optical Character Recognition program). Việc làm này "an toàn" cho đến khi nào người ta chưa thiết kế được các chương trình "đọc" và "hiểu" nổi các kí tự trong hình cũng như trong trường hợp hacker chưa "đọc" được giá trị của mật khẩu. Ngược lại nếu như 1 "đồng nghiệp" xấu "vô tình hay cố ý" đọc được giá trị mật khẩu này thì ... coi như biện pháp dùng hình ... không còn hiệu lực vì người đó cũng có thể đọc chữ trên hình để truy nhập. -
Phương
pháp
đề
xuất
trong
bài
viết
"Tương
Tự
Hoá
và
Cưỡng
Bức
Tương
tự
Hoá"
có
thể
được
nhìn
ở
1
góc
tự
do
đa
chiều
hơn
(nhiều
chiều
hơn
với
ý
thức
chiều
không
-
thời
gian
và
ngay
cả
những
chiều
trừu
tượng
khác).
Tức
là,
thay
vì
để
password
chỉ
phụ
thuộc
vào
các
cấp
độ
không
gian
thì
cần
tạo
dựng
1
cơ
sở
cho
password
có
thể
"biến
động"
theo
các
chiều
khác,
chẳng
hạn
như
chiều
thời
gian
và
các
đặc
tính
điạ
phương
như
là
một
chiều
khác
nữa.
Như vậy, việc giải quyết về hình thức có thể như sau:- Mật khẩu có khả năng "biến động" theo thời gian:
- Mật khẩu có khả năng "biến động" theo các điều kiện địa phương tức là các điều kiện mà máy được truy nhập mật khẩu đang có.
- ... Thêm vào các chiều tự do khác (chẳng hạn như Microsoft đã "thêm" vào đó chiều thứ hai của không gian)
- Vấn đề thực sự mà người thiết kế cần thấy được ở đây là: làm sao có sự "hiểu ý" giữa "máy tính" và "người nhập mật khẩu". Như vậy, "ngôn ngữ" (hay đúng hơn là các kĩ thuật tạo dựng mật khẩu phải thoả mãn điều kiện mà máy tính có thể "hiểu" và "áp dụng" được). Ở đây, cách thức đơn giản nhất là cài lên máy tính các thuật toán hữu hạn và chấp nhận được một độ "sai biệt" hay "sai số" nào đó (người thiết kế kiểu password của Microsoft hẳn nhiên "hiểu" rõ làm sao máy của ông ta chấp nhận được cái hình vẽ mới từ bên ngoài không bao giờ giống hệt mà chỉ cố ý "lưu giữ" hay trích ly ra những "yếu tố" cần và đủ.) Dẫu sao, cho đến nay, sự "thông minh" nhất của máy vẫn chỉ là "thi hành những gì người ta lập trình cho nó". Có nhiều cách thức, 1 cách hay là biểu thị các chiều phụ thuộc của mật khẩu sang dạng các hàm số toán học. Và mỗi khi thay đổi mật khẩu, người chủ mật khẩu buộc phải cung ứng những "hàm số" mà mình sẽ cài lên máy tính, người đó phải nhớ các hàm đó để sau này khi truy nhập thì tự mình tính được giá trị tức thời của mật khẩu. Dĩ nhiên, ở đây các thuật toán được giả thiết cho phép chấp nhận một lượng "sai số" vừa phải nào đó.
-
Trở
lại,
đề
xuất
trước
đây
như
là
thí
dụ
xin
chỉ
phân
tích
cho
rõ
ý:
Để cho mật khẩu có thêm chiều "thời gian" thì cách dễ nhất là nó được "biến động" theo một hàm số của thời gian (và do đó cả máy lẫn người đều có thể "nhớ" được. Như vậy, người thiết kế có thể chỉ cần giới hạn lại các dạng hàm số nào cho phép chứ không thể bất kì hàm nào cũng được. Có nhiều dạng hàm như thế ở đây chỉ nêu đơn giản. Thí dụ: Ngoài chiều mật khẩu thông thường (dạng string), giờ người login phải nhập thêm giá trị hàm số đa thức của chỉ số giờ trong ngày (0-23) (như là 2 * T + 3, T là thời gian tính theo giờ 0-23 chẳng hạn). Như vậy giá trị mật khẩu của người truy nhập chỉ tồn tại tối đa 1 giờ đồng hồ sau đó người đó trong dịp truy nhập khác phải tính toán lại giá trị này. Người hacker dẫu có bằng cách nào đó "xem lén" được giá trị lúc truy nhập thì sau khoảng thời gian tối đa 1 giờ, giá trị mật khẩu đó không thể dùng login được nữa vì hacker không biết "hàm số" mà người chủ đã sử dụng là hàm gì? Thời gian hiệu lực này có rút xuống thành từng phút nếu thay đổi miền xác định từ 0-23 giờ thành chỉ số phút 0-59 chẳng hạn. với cách này thì hầu như 100% loại được việc "đọc lén" password.
Để cho mật khẩu có thêm chiều "đặc tính điạ phương" thì tương tự trên, các giá trị như là "trữ lượng chỗ trống MB của một ổ đĩa" hay "độ phân giải của màn hình" mà máy được truy nhập đang hoạt động. Ở đây, ta thấy rõ, đôi khi máy phải cung cấp vài thông tin như thế "về cá nhân mình" -- tức là các đặc điểm sơ lược của máy tính để người truy nhập dựa trên đó thay vào các giá trị biến số, tính thành các giá trị theo hàm số mà truy nhập. Tương tự trên, các hàm số nên được giới hạn trong khả năng của máy và bảo đảm được độ lớn của miền giá tri (tránh hàm hằng). Đặc tính "địa phương" này nếu chọn khéo (chẳng hạn như chỉ có các máy của hãng XYZ mới có "tên" là "MyCompany_N" (N là số máy) thì "hàm" số này sẽ chỉ chấp nhận các string có tên máy trong miền xác định "MyCompany_N" và do đó nếu là hacker không biết được cơ sở mà giá trị hàm địa phương đã dựa lên thì không thể nào truy nhập hay phá thủng được.
Hai
thí
dụ
trên
chỉ
là
hai
chiều,
người
thiết
kế
có
thể
đặt
ra
những
chiều
trừu
tượng
khác...
Lời Kết[sửa]
Các bạn thân mến,
Giáo Pháp Phật giáo thực sự có thể được nhìn từ một viễn kiến khoa học và nếu như chúng ta khảo sát nó bằng tâm tư rộng mở thì tin chắc rằng ít nhất người nghiên cứu sẽ tìm được nhiều khía cạnh để học hỏi ứng dụng, chẳng hạn như các nghiên cứu về tâm lý học Phật giáo đã cung cấp cho nền y học hiện đại rất nhiều ứng dụng đặc biệt là trong ngành thần kinh học và vật lý trị liệu. Xa hơn nữa, có khi nhờ vào thực nghiệm Phật giáo mà cá nhân biết đâu có thể khám phá được một chân trời xa rộng cho hạnh phúc con người trong khi khoa học lý thuyết lẫn thực nghiệm cho đến nay chưa bao giờ đạt tới.
Namo
Buddhaya,
Dharmaya,
Sanghaya.
Namo
Buddhaya,
Dharmaya,
Sanghaya.
Namo
Buddhaya,
Dharmaya,
Sanghaya.
Bài
viết
này
khởi
lên
do
tâm
nguyện
chia
sẻ
hiểu
biết
về
Phật
giáo
ứng
dụng
cho
người
đọc
hữu
duyên,
chắc
chắn
vẫn
còn
nhiều
thiếu
sót.
Người
viết,
xin
cảm
tạ
và
hoan
hỉ
đón
nhận
mọi
chỉ
giáo
và
hướng
dẫn
về
các
sai
sót.
Tất
cả
công
đức
nhận
được
xin
hồi
hướng
về
mọi
chúng
sinh
hữu
tình.
Mọi
ý
kiến
xin
liên
lạc
về
vo_quang_nhan@yahoo.com
Chú thích[sửa]
- ↑ Câu này được trích từ bản sớ giải Vimalaprabhā về Kālacakra, mặc dù nó cũng thấy xuất hiện trong Kinh tạng Pali. Phần tiếng Sanskrit được trích dẫn trong Tattvasaṃgraha, do D. Shastri biên tập (Vārāṇasī: Bauddhabharari, 1968), k. 3587.
- ↑ Nguyên lý "Tứ Điệu Đế" thực ra là cách tiếp cận để một chúng sinh tự mình giải thoát khỏi đau khổ. Qua đó, đức Phật phân tích về Sự khổ (khổ), Các Nguyên Nhân của sự khổ (tập) để từ đó qua lập luận cho thấy khả năng loại trừ khổ đau (diệt) qua các phương tiện để rèn luyện tâm thức (đạo). Để có thêm các giảng giải chi tiết xin xem thêm tác phẩm "The Four Noble Truths" của đức Đạt-lai Lạt-ma. 224 pages. Publisher: Thorsons (June 25, 1998). ISBN-10: 0722535503. Tác phẩm này đã được dịch sang Việt ngữ. (xin liên lạc về vo_quang_nhan@yahoo.com)
- ↑ Hình ảnh lấy từ trang Plus Magazine của University of Cambridge. Xem giấy phép Term of Use
- ↑ Lý thuyết tìm cách thống nhất giải thích các lý thuyết vật lý hiện nay gọi là lý thuyết dây (string theory). Phát triển xa hơn của lý thuyết này là thuyết M (M-theory) mà hậu quả cuả nó là sự tồn tại của nhiều vụ nổ lớn hình thành vô vàn các vũ trụ khác nhau (Parallel Universe). (xem thêm http://www.bbc.co.uk/science/horizon/2001/parallelunitrans.shtml hay http://superstringtheory.com/). Về phía Phật giáo thì có kinh sách dạy rằng hiện lúc nào cũng có vô số thế giới đang ở một trong các giai đọan hình thành (thành), tồn tại (trụ), hủy diệt (hoại) và biến mất (không)
- ↑ Long Thọ sống vào khoảng thế kỉ thứ 1, 2. là một trong những Phật tử có công lớn trong việc phát triển giáo lý về tính Không. (Xem thêm: http://vi.wikipedia.org/wiki/Long_Th%E1%BB%A5 hay http://en.wikipedia.org/wiki/Nagarjuna)\.
- ↑ Quy Mậu biện Chứng là lối chứng minh phản chứng mà trong đó người phản biện chỉ dùng lập luận của chính đối phương cùng với các duy diễn hợp lý để dẫn đến các kết quả mâu thuẫn. Do đó, lập luận và kết luận của đối phương là không đúng.
- ↑ Trích từ chương 1 trong cuốn "The Dalai Lama at Harvard" Publisher: Snow Lion Publications (March 25, 1989). ISBN-10: 0937938718. Đoạn dịch lấy từ bản của Chân Nguyên trong http://www.daouyen.com/Datlai-Latma/Index.htm
- ↑ Bản thân sai sót này của học thuyết Newton cũng vi phạm nguyên lý duyên khởi của Phật giáo cho rằng mọi sự vật và hiện tượng đều phụ thuộc nhau ở một góc độ nào đó.
-
↑
9,0
9,1
Trong
Kinh
Kim
Cang
đức
Phật
nêu
rõ:
- "Nhữ đẳng Tỳ-kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp"
- Lời dịch của Thích Huệ Hưng: ‘Tỳ kheo các ông, phải biết pháp cuả ta nói, chỉ như chiếc bè, ‘pháp’ còn phải bỏ, huống hồ ‘phi-pháp’.
-
↑
Xem
thêm
nhiều
chi
tiết
quan
trọng
trong
quyển
"Tứ
Diệu
Đế"
đã
được
dịch
sang
Việt
ngữ;
trong
phần
mở
đầu
của
sách
này
đức
Đạt-lai
Lạt-ma
có
viết:
- "Một giáo pháp có thể là rất thâm diệu, nhưng nếu không phù hợp với một người nào đó, thì sự giảng giải giáo pháp đó phỏng có ích gì cho người ấy? Trong ý nghĩa này, Phật pháp tựa như một liều thuốc. Giá trị chính của liều thuốc là ở chỗ nó chữa được bệnh chứ không ở nơi số tiền bỏ ra mua nó. Chẳng hạn, một loại thuốc có thể là rất quý và đắt tiền, nhưng nếu nó không thích hợp với người bệnh thì chẳng có ích gì cả."
- ↑ Trong 1 dịp "tình cờ", hệ thống điều hoà nhiệt độ của ngôi nhà mà người viết bài cư ngụ bị trục trặc đòi hỏi phải phải trèo lên gác xép để bảo trì và sửa chữa. Đây cũng là dịp khiến cho người viết "chịu nóng" quá mức và nghĩ đến cách giải quyết này.
Tài liệu tham khảo[sửa]
- Kinh Kim Cang.
- "The Four Noble Truths" của đức Đạt-lai Lạt-ma. 224 pages. Publisher: Thorsons (June 25, 1998). ISBN-10: 0722535503. Sách đã được chính thức cho dịch sang Việt ngữ và xuất bản trong năm 2007-2008.
- "Consciousness at the Crossroads: Conversations with the Dalai Lama on Brain Science and Buddhism" (Snow Lion - Ithaca, New York, 1999) ISBN 1559391278
- Technical Publication, HP worldwide monthly journal (July 2004):"Anti-thief password system". Nhan Vo Quang..
- http://www.thuvienhoasen.net/duyluc-khaithicuoicungtaivietnam-08.htm. "Hoà thượng Duy Lực Khai thị". Thư viện Hoa Sen.
- http://www.daouyen.com/Datlai-Latma/Index.htm
- http://plus.maths.org/issue18/features/hawking/index.html. "Stephen Hawking's 60 years in a nutshell" by Stephen Hawking.
- http://vietsciences.org/thuctap_khoahoc/renluyen_sangtao/similar.htm -- Loạt bài "Các Phương Pháp tư Duy Sáng Tạo". Bài "Tương Tự Hoá và Cưỡng Bức Tương Tự Hoá". Võ Quang Nhân và Trần Thế Vỹ. 2004
Xem thêm[sửa]
- Bài kế: Ứng dụng các Nguyên Lý Phật giáo vào Nghiên Cứu và Phát Triển - Bài II
- Bài kết: Ứng dụng các Nguyên Lý Phật giáo vào Nghiên Cứu và Phát Triển trong Khoa Học - Bài Kết