100 khám phá khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử/15
Ba Định Luật Chuyển Động
- Thời gian phát hiện: năm 1687
- Nội dung phát hiện: quan hệ cơ bản giữa vật chất, lực và vận động, đó là cơ sở xây dựng nên vật lý học và công trình học.
- Người phát hiện: Isaac Newton.
Tại sao ba định luật chuyển động của Newton lại có tên trong 100 phát hiện khoa học vĩ đại nhất?
Ba định luật chuyển động lớn của Newton đã đặt cơ sở cho sự hình thành của vật lý học và công trình học. Giống như định lý cơ bản của Euclid đã đặt nền tảng cho sự ra đời của hình học hiện đại, ba định luật về vận động của Newton cũng đưa ra những định lý nền tảng cơ bản hình thành nên khoa học vật lý. Những cống hiến lớn lao của Newton như đưa ra ba định luật lớn về chuyển động, phát hiện ra lực hút trái đất, sáng lập ra vi tích phân đã thực sự khiến Newton trở thành nhà khoa học kiệt xuất nhất suốt thời gian 1000 năm của lịch sử.
Ba định luật chuyển động của Newton đã ra đời như thế nào?
Từ
sau
năm
1609,
khi
Johannes
Kepler
phát
hiện
ra
các
hành
tinh
chuyển
động
quanh
mặt
trời
theo
một
quỹ
đạo
hình
elip
(chứ
không
phải
hình
tròn),
các
nhà
khoa
học
liên
tục
thử
dùng
các
phương
pháp
toán
học
để
giải
thích
các
quỹ
đạo
đó.
Robert
Hooke
và
John
Halley
đều
đã
từng
làm
theo
cách
đó
nhưng
kết
quả
họ
thu
được
không
như
mong
đợi.
Newton sinh năm 1642 tại Lincolnshire, Anh, cách trường Cambridge khoảng 60 dặm. Khi còn nhỏ, Isaac là một cậu bé không bình thường. Ba tháng trước khi chào đời, cậu đã mất cha, do cậu không thích cha dượng nên đã được đưa đến cho bà ngoại nuôi. Newton chẳng ưa một ai cả, cậu không thích mẹ, không thích bà ngoại, thậm chí ngay cả các anh em cùng mẹ khác cha cậu cũng không thích. Khi đi học Newton luôn vi phạm kỷ luật, cậu luôn là mối đau đầu cho các thầy cô giáo.
Chỉ
có
một
người
duy
nhất
là
William
Ayscough
nhận
ra
được
tài
năng
và
trí
thông
minh
của
Newton.
Ông
sắp
xếp
cho
Newton
đi
học
tại
trường
Trinity
(thuộc
đại
học
Cambridge).
Do
quá
nghèo
không
đủ
tiền
đóng
học
phí
nên
Newton
phải
đi
làm
thuê
cho
các
học
sinh
khác
để
kiếm
tiền
trang
trải
tiền
ăn
ở,
ông
lúc
nào
cũng
ở
một
mình,
mang
vẻ
thần
bí,
hay
gắt
gỏng
và
thích
tranh
luận
với
người
khác.
Năm
1665,
Luân
Đôn
bùng
phát
bệnh
dịch
hạch,
trường
Cambridge
buộc
phải
cho
học
sinh
nghỉ
học
và
Newton
phải
về
trang
trại
của
người
em
gái
để
tránh
dịch
bệnh.
Ở
trang
trại.
Newton
rất
chán
nản
vì
cuộc
sống
đơn
điệu
thiếu
đi
những
công
cụ
toán
học
để
miêu
tả
sức
mạnh
cùng
sự
vận
động
luôn
thay
đổi.
Newton
quyết
định
làm
sáng
tỏ
những
sức
mạnh
nào
có
thể
khiến
cho
vật
chuyển
động
hay
đứng
yên.
Ngoài
việc
đọc
các
tài
liệu
tương
đối
mới
của
Kepler
và
Halley,
Newton
còn
chú
tâm
đọc
các
nghiên
cứu
của
Galileo
và
Aristotle.
Ông
sưu
tầm
những
kết
quả
và
lý
luận
nghiên
cứu
trước
đây
của
các
nhà
học
giả
Hy
Lạp
cổ,
các
lý
luận
đó
rất
tản
mạn
và
thường
mâu
thuẫn
với
nhau.
Newton
có
một
biệt
tài
khiến
người
khác
khâm
phục
đó
là
khả
năng
chọn
ra
những
thiểu
số
tinh
túy
từ
những
số
lượng
lớn.
Newton
đã
sàng
lọc
và
chọn
ra
các
trọng
tâm
quan
trọng
phổ
biến
trong
các
lý
luận
đó.
Newton không được coi là một nhà thí nghiệm, ông thích suy ngẫm mọi vấn đề, ông làm thí nghiệm trong tư tưởng giống như Enstein. Ông thường dành rất nhiều thời gian để suy ngẫm cho đến khi tìm được đáp án mới thôi. Nếu nói theo cách của Newton thì ông “bày các vấn đề ra trước mắt sau đó chờ đợi, cứ chờ cho đến khi xuất hiện tia sáng đầu tiên, từ từ theo đó lần ra, cuối cùng bỗng nhiên bừng sáng”.
Không
lâu
sau
đó,
Newton
phải
băn
khoăn,
trăn
trở
với
câu
hỏi:
Sức
mạnh
nào
đã
dẫn
đến
sự
chuyển
động?
Ông
dành
thời
gian
để
nghiên
cứu
kĩ
hơn
về
định
luật
vật
rơi
tự
do
của
Galileo
và
quy
luật
sự
vận
động
các
hành
tinh
của
Kepler.
Ông
tiến
hành
nghiên
cứu
quên
ăn
quên
ngủ,
đến
mức
gần
quá
sức
chịu
đựng
của
cơ
thể.
Đầu
năm
1666,
Newton
đưa
ra
ba
định
luật
chuyển
động,
ba
định
luật
này
là
điều
kiện
không
thể
thiếu
cho
sự
ra
đời
của
các
phát
hiện
vi
tích
phân
và
phát
hiện
ra
trái
đất
có
lực
hấp
dẫn
sau
này
của
ông.
Thế
nhưng
mãi
20
năm
sau,
khi
được
sự
khích
lệ
của
Halley,
Newton
đã
viết
cuốn
nguyên
lý
toán
học
của
triết
học
tự
nhiên
và
ông
mới
công
bố
ba
định
luật
này.
Năm 1684, Jean Picard lần đầu tiên tính ra một cách chính xác kích thước và khối lượng của trái đất. Với những số liệu cần thiết và chính xác này, Newton đã có thể chứng minh: trên cơ sở vận dụng ba định luật vận động và phương trình trọng lực do ông tạo ra có thể tính được một cách chính xác quỹ đạo vận động thật sự của các hành tinh. Mặc dù đã có đầy đủ các số liệu toán học để chứng minh, nhưng Newton sẽ không đưa ra Nguyên lý toán học của triết học tự nhiên nếu như không có sự thỉnh cầu và thuyết phục của Halley năm 1687. Nguyên nhân chủ yếu để đưa ra tác phẩm này là phản đối sự sai lầm trong công bố của Robert Hooke cho rằng đã phát hiện ra quy luật phổ biến của vận động. Nguyên lý toán học của triết học tự nhiên đã trở thành tác phẩm được đón nhận và sử dụng rộng rãi trong lịch sử.