Cổ học tinh hoa. Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân/229
DÙNG RƯỢU SAY ĐỂ KHIẾN CHỒNG
Công tử nước Tấn tên là Trùng Nhĩ gặp trong nước có nạn, phải chạy ra nước ngoài. Công tử đi hết nước này sang nước khác.
Khi sang đến Tề, vua Hoàn Công đem con gái là Khương Thị gả cho và cho tám mươi con ngựa. Công tử được vậy, lấy làm yên thân muốn suốt đời ở nước Tề.
Các quan tòng vong, biết nước Tề không có thể tin cậy được, toan đi sang nước khác mới cùng nhau âm mưu ở chốn vườn dâu.
Có một người đàn bà hái dâu nghe lỏm, biết chuyện, đến mách với Khương Thị.
Khương Thị sợ việc tiết lộ, giết ngay người ấy đi, rồi bảo công tử rằng:
- Công tử có chí tứ phương, đứa nghe lỏm mưu ấy, thiếp đã giết đi rồi.
Công tử nói:
- Thật ta không có chí đi đâu cả.
Khương Thị bảo:
- Phải đi mới được. Say một người yêu mà cứ mê mệt, thích một cảnh vui mà cứ ở yên, thực là làm cho bại hoại hết cả công danh sự nghiệp.
Công tử vẫn không muốn đi.
Khương Thị bèn cùng với Tử Phạm lập kế một hôm cho công tử uống rượu thật say, rồi bỏ lên xe bắt kéo đi. Công tử tỉnh rượu, biết là mình lìa xa nước Tề, giận quá, cầm giáo đuổi Tử Phạm muốn giết. Nhưng ít lâu công tử tỉnh ngộ biết hối lại ngay.
Nhờ có thế mả sau công tử về làm được vua nước Tấn và bá cả chư hầu.
"TẢ TRUYỆN"
GIẢI NGHĨA[sửa]
- Công tử: tiếng gọi con vua chừ hầu, hay con quan to.
- Tấn: tên một nước nhớn đời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Sơn Tây và một ít đất tỉnh Trực Lệ ngày nay.
- Tòng vong: người theo vua chạy trốn lúc có quốc nạn.
- Âm mưu: bản tính ngầm một việc gì không cho ai biết.
- Tiết lộ: không giữ được kín đáo, cõng việc để người ngoài biết.
- Có chí tứ phương: có chí đi mọi nơi, để lo toan việc nhớn.
- Bại hoại: hư hỏng tan nát.
- Tỉnh ngộ: hết mê mà biết thật phải trái.
- Hối: nghĩ lại mà ăn năn rằng trước không phải.
- Bá: đàn anh cả các nước chư hầu một thời.
NHỜI BÀN[sửa]
Trùng Nhĩ gặp nạn nước mà đem thân ra đi thật là có chí đáng trọng. Song đi đến tề, được vợ đẹp, có ngựa nhiều, mà để cho sự vui chơi nồng nàn nó làm cho nguội lạnh cả chí khí thật lại là đáng tiếc. Người khôn mà nhỡ mê thì cái dại to lắm. Trùng Nhĩ lúc này, tưởng đã gần như ông "lạc bất tư Thục"[1]. May thay cho Trùng Nhĩ gặp được bọn tòng vong biết lo xa tính sâu mà nhất là được bà vợ là người có kiến thức cao xa, có gan dạ quả quyết, biết rõ cái thói thường "Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản" mà bà cố đấy mãi cái bánh xe đã chết bệt xuống đống bùn phải cho kỳ lăn quay đi được mới nghe. Nên ta khen cái chí Trùng Nhĩ phục quốc bao nhiêu thì ta lại phải qui cái công lao Tử Phạm, phải trọng cái kiến thức, cái mưu trí của Khương Thị bấy nhiêu. Sao mà đời cổ có những thần thiếp giỏi giang như thế!
Chú thích[sửa]
- ↑ Đời Tam quốc nước Thục mất, vua là Lưu Thiện bị bắt sang ở Lạc Dương, vua Tấn hậu đãi Lưu Thiện, mỗi khi yến ẩm, Lưu Thiện vui cười như không. Vua Tấn hỏi: Có nhớ nước Thục không? Lưu Thiện nói: "Thứ gian lạc, bất tư Thục dã ở đây vui lắm, chẳng nhớ đến nước Thục nữa.