Che Guevara
Ernesto Guevara de la Serna (1928-1967), thường được biết đến với tên Che Guevara, El Che hay đơn giản là Che, là một nhà cách mạng Mác-xít nổi tiếng người Argentina. Ông là một lý thuyết gia quân sự, nhà lãnh đạo phong trào cách mạng Cuba cùng đội quân du kích. Bức ảnh khuôn mặt ông đã trở thành một biểu tượng văn hóa phản kháng tượng trưng cho sự nổi dậy và một biểu hiệu toàn cầu trong văn hóa phổ thông.[1]
Mục lục
Tuổi thơ và truyền thống gia đình[sửa]
Che Guevara sinh ngày 14 tháng 6 năm 1928 tại Rosario, Argentina trong một gia đình rất giàu truyền thống. Cha ông là Ernesto Guevara Lynch, mẹ là Celia dela Serna một phụ nữ cấp tiến. Ông nội ông là Roberto - người sáng lập nên Hội Nông thôn Argentina, một tổ chức quyền lực của những đại địa chủ. Còn ông ngoại ông Juan Martin là nhà hoạt động chính trị rất tích cực trong những ngày đầu thành lập Liên đoàn Công dân Cấp tiến (UCR). Đây chính là đảng phái chính trị đầu tiên ở Argentina đã giành được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng khi ra đời, trong thời điểm diễn ra cuộc Cách mạng năm 1890. Che còn có một cụ tổ là người đã từng đi tìm vàng ở California miền tây nước Mỹ.
Gia đình ông sống tại thị trấn Caraguatay, tỉnh Misiones, vùng đông bắc Argentina, sau chuyển tới San Isidro, một quận lị ngoại ô thủ đô Buenos Aires, rồi tới ngụ cư tại một thị trấn vùng đồi là thuộc tỉnh Cordoba là Altor Gracia.
Năm 2 tuổi, Che bị viêm phổi nặng, làm khởi phát căn bệnh khác, mà như mẹ Che nói, là một yếu tố rất quan trọng cấu thành nên ý chí sắt đá của ông, là hen suyễn.
Khi còn nhỏ, Che rất thích xem phim và đọc truyện phiêu lưu của Jack London, Jules Verne.
Tuổi trẻ phiêu lưu[sửa]
Khi học xong trung học tại trường Dean Funes, Che theo học ngành y tại Đại học Buenos Aires và chọn bệnh suyễn ông mắc phải làm chuyên ngành nghiên cứu.
Chuyến đi khởi đầu[sửa]
Ngày 1 tháng 1 năm 1950, Che Guevara bắt đầu cuộc hành trình đầu tiên của mình với dự định kết hợp vui chơi và công việc, bằng chiếc xe đạp Micron có gắn động cơ. Khởi đầu chuyến đi hướng về phía tây, băng qua khu đồng bằng Pampas ở phía bắc. Cuộc hành trình có chiều dài lên tới 4.500 km. Ông đã sống và giúp việc trong khu người mắc bệnh phong Chanar một thời gian và làm việc trong đội xây dựng xa lộ quốc gia, rồi đội thuyền buôn của Argentina.
Tháng 10 năm 1951, ông hội ngộ với một người bạn thân là Alberto Granado tại Córdoba. Che đề nghị hai người cùng thực hiện chuyến đi Bắc Mỹ và Alberto đã đồng ý.
Hành trình xuyên châu Mỹ Latinh[sửa]
Ngày 29 tháng 12 năm 1951, hai người lên đường, bắt đầu hành trình đến các nước Mỹ Latinh khác bằng chiếc xe mô-tô La Poderosa II 500 phân khối của Alberto. Họ đã qua hầu hết các nước trong vùng. Hai tháng sau ngày khởi hành, họ tới Chile, tại đây chiếc xe máy bị hỏng và họ phải bỏ lại nó giữa chừng. Bằng nhiều cách khác nhau hai người vẫn tiếp tục đi hết Chile, tới Bolivia và Peru.
Tại Peru, hai người đã tới thăm khu người mắc bệnh phong Sanpablo. Sau đó họ lại xuôi theo dòng sông Amazon đến Colombia và Venezuela trên chiếc bè có tên là Mambo Tanga. Tại Venuzuela hai người chia tay nhau, Alberto ở lại, nhận việc chăm sóc bệnh nhân phong còn Che quay trở lại Argentina để hoàn tất chương trình học đại học.
Trong Nhật ký du hành của mình, Che đã cho thấy sự thay đổi trong con người ông là rất lớn. Cuộc hành trình đã hình thành trong ông lòng thương cảm những con người nghèo khổ và tinh thần chống đế quốc mãnh liệt.
Tiếp tục lên đường[sửa]
Hoàn thành chương trình học không mấy khó khăn, ngày 16 tháng 6 năm 1953 tốt nghiệp bác sĩ, anh lại tiếp tục cuộc hành trình trở lại châu Mỹ Latinh cùng với Carlos Calica Ferre, một người bạn thân từ nhỏ ở Córdoba.
Chuyến đi bắt đầu ngày 7 tháng 7 năm 1953, hai người đi xe lửa tới Bolivia, họ tới thủ đô Lapaz vào ngày 24 cùng tháng. Lúc này tình hình chính trị ở quốc gia này rất căng thẳng. Vài tháng sau, hai người lại đi chu du khắp Peru, Ecuador, rồi Costa Rica, sau đó ở lại Guatemala trong khoảng 9 tháng. Tại đây, Che đã gặp Hilda Gadea, một phụ nữ Peru lưu vong, người sau này đã trở thành vợ. Cô đã giới thiệu hai người với những người Cuba trong phong trào 26 tháng 7, đang sống lưu vong tại đây, trong số đó có Nico Lopez, người mà về sau đã đặt cho anh biệt danh Che.
Sau một thời gian làm việc tại bệnh viện, anh lại lên đường dến México, tại đây, anh đã được giới thiệu với Fidel Castro Ruz (tháng 7 năm 1955) và không lâu sau lần gặp gỡ đó, anh đã tự nguyện tham gia vào nhóm viễn chinh của những người Cuba.
Chiến đấu[sửa]
Tháng 4 năm 1956, anh bắt đầu được huấn luyện quân sự cùng với những người Cuba khác và là một trong những học viên xuất sắc nhất.
Hai tháng sau, ngày 24 tháng 6, Che và Fidel cùng những người Cuba lưu vong khác đã bị chính quyền Mexico bắt giữ và giam tại nhà tù Miguel Schultz. Ngày 31 tháng 7 họ ra tù và lại tiếp tục khóa huấn luyện.
Ngày 25 tháng 11 năm 1956 cùng với 82 người khác vượt biển trở về Cuba trên con tàu Granma (là từ viết tắt của Grand Mother—bà) với tư cách là một thành viên trong Tổng tham mưu của quân du kích. Ngày 2 tháng 12 họ đã bí mật đổ bộ lên hòn đảo Cuba.
Chiến tranh du kích[sửa]
Sau khi đổ bộ vào đảo quốc Cuba, quân du kích đã sử dụng nghệ thuật chiến tranh du kích, phát động nhiều cuộc chiến như: trận Algeria del Pio (21 thành viên bị tử trận) chiếm giữ được trại La Plata, trận Arroyo del Infierno, El Uvero... Nhờ sử dụng chiến tranh du kích nên chỉ với lực lượng ít nhưng họ vẫn giành nhiều chiến thắng quan trọng như vào tháng 6 năm 1958, 320 quân cách mạng đã phải chống lại 1 vạn quân chính quy của chế độ Batista. Cuộc chiến kết thúc, chính quyền vẫn không tiêu diệt được quân cách mạng mà còn bị tổn thất 1.000 quân và 400 quân khác thì bị quân cách mạng bắt làm tù binh.[cần dẫn nguồn]
Ngày 21 tháng 7 năm 1957, Che được Fidel Castro thăng hàm Thiếu tá trước cả Raul Castro và Juan Almeida và giao trách nhiệm thành lập Đội quân số 4 của quân nổi dậy. Chỉ một tháng sau đó, Che đã lãnh đạo quân của mình chiến thắng tại trận El Hombrito (ngày 30 tháng 8).
Trận đánh quyết định[sửa]
Tháng 8 năm 1958 Che Guevara và Camilo Cienfuesgos lãnh đạo các đội quân của mình bắt đầu phát động "cuộc xâm chiếm" từ phía tây đảo quốc. Họ đã hành quân chặng đường 554 km trong 47 ngày với quân dụng nghèo nàn, chủ yếu là đi bộ. Theo một hiệp ước sau đó, giữa các lực lượng, Che thống nhất chỉ huy các nhóm quân chống chế độ Batista. Quân nổi dậy bắt đầu tấn công vào Santa Clara, trung tâm kinh tế, đầu mối giao thông quan trọng. Ngày 31 tháng 8 năm 1958 quân nổi dậy chiếm được Santa Clara làm cho chế độ Batista nhanh chóng đi vào chỗ diệt vong. Batista phải chạy trốn ra nước ngoài, bắt đầu cuộc sống lưu vong.
Ngày 4 tháng 1 năm 1959 Che cùng với những chỉ huy quân nổi dậy khác tiến vào La La Habana trên vị thế của những người chiến thắng.
Tham gia chính quyền[sửa]
Sau những đóng góp vĩ đại của mình cho đảo quốc này, Che được trao quyền công dân Cuba.
Chính quyền mới của quân cách mạng được thành lập, Che là một trong bộ ba lãnh đạo gồm (Che, Fidel Castro và Raul Castro) của đất nước này. Ngày 8 tháng 10 năm 1959 Che được bổ nhiệm giữ chức Trưởng ban Nông nghiệp của Viện Cải cách ruộng đất quốc gia. Với cương vị này, Che đã ra quyết định tịch thu toàn bộ ruộng đất tư hữu. Ngày 26 tháng 11 được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Ngân hàng quốc gia.
Tuy nhiên, có vẻ đây không phải là một vị trí thích hợp với ông, bởi Che rất coi thường đồng tiền, và ông thể hiện điều này bằng cách ký trên các tờ tiền mới chỉ với bí danh của mình.
Tháng 4 năm 1960 Che kiêm nhiệm thêm chức chỉ huy Ban huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng. Tháng 2 năm 1961 được bầu làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp, Che đã ra quyết định đặt hàng trăm công ty quốc doanh dưới quyền kiểm soát của Trung ương. Với nhiệm vụ này, ông thường xuyên đi khắp thế giới trên cương vị là một đại sứ Cuba.
Thời gian này xảy ra nhiều sự kiện ảnh hưởng tới Cuba như sự kiện Vịnh Con Lợn, Hoa Kỳ cấm vận, khủng hoảng tên lửa, khủng hoảng ngoại giao... Qua cuộc khủng hoảng tên lửa Guevara càng tin tưởng là hai siêu cường thế giới (Hoa Kỳ và Liên Xô) đã coi Cuba như là nơi mặc cả trong chiến lược toàn cầu của họ, ông tin rằng hành động xuống thang của Liên Xô cho thấy nước này không sẵn lòng mạo hiểm để trợ giúp cho cách mạng các nước Mỹ Latinh. Sau đó ông lên án Liên Xô hầu như thường trực như ông đã làm đối với Hoa Kỳ.[2] Bài diễn văn phát biểu của ông tại Algeria ngày 25 tháng 2 năm 1965 chỉ trích Xô Viết đã không giúp đỡ đủ tích cực cho cuộc đấu tranh giải phóng nhân dân bị áp bức trên thế giới.
Tiếp tục chiến đấu[sửa]
Đảm đương cương vị Chủ tịch Ngân hàng Nhà nước và Bộ trưởng Công nghiệp trong chính phủ cách mạng Cuba, Che luôn kêu gọi xây dựng xã hội mới, nơi con người mới biết sống vì mọi người, vì chủ nghĩa quốc tế.
Tháng 3 năm 1963, mặc dù bị bệnh hen hành hạ từ nhỏ, Che quyết định từ nhiệm mọi cương vị kể cả quyền công dân Cuba để lên đường thực hiện mong muốn tiếp tục được cống hiến cho sự nghiệp tranh đấu giành tự do của các dân tộc bị áp bức. Ông từ biệt vợ con để lên đường tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng Mỹ Latinh, để "Tạo ra một, hai, ba và rất nhiều Việt Nam" - như lời ông nói- vào thời khắc cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam bước sang giai đoạn quyết liệt.
Quyết định ra đi được đưa ra vào đúng lúc con đường công danh đang rộng mở đối với Che khiến dư luận không khỏi hồ nghi có những khuất tất. Đã không ít ý kiến cho rằng: đằng sau sự ra đi đó có sự ép buộc khiên cưỡng của 2 anh em nhà Castro... Tuy nhiên, trong bức thư gửi Chủ tịch Fidel mà sau được chính Fidel đọc trong buổi lễ thành lập Đảng Cộng sản Cuba, Che đã nói rõ việc ông thôi giữ cương vị lãnh đạo là hoàn toàn tự nguyện, thể theo tiếng gọi của trái tim yêu tự do, khao khát hòa bình và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng loài người khỏi áp bức và bất công. Thư viết:[3]
-
- Tôi cảm thấy đã hoàn thành phần nghĩa vụ của mình liên quan đến cách mạng Cuba trên lãnh thổ Cuba và tôi xin từ biệt anh, từ biệt các đồng chí, từ biệt nhân dân của anh, mà cũng đã trở thành của tôi. Tôi chính thức từ bỏ mọi chức vụ trong ban lãnh đạo đảng, chức bộ trưởng, cấp bậc tư lệnh, tư cách là người Cuba...
- Những miền đất khác trên thế giới đang đòi hỏi sức lực khiêm tốn của tôi... Tôi để lại một đất nước đã chấp nhận tôi như một người con... Trên những chiến trường khác tôi sẽ mang theo niềm tin mà anh đã vun đắp cho tôi, mang theo tinh thần cách mạng của nhân dân tôi, mang theo ý chí thực hiện nghĩa vụ quan trọng nhất: chiến đấu chống lại chủ nghĩa đế quốc ở bất kỳ nơi nào...
- Dù đến bất cứ đâu, tôi cũng sẽ cảm nhận trách nhiệm của một người cách mạng Cuba và sẽ hành động như vậy...
- Hẹn đến ngày toàn thắng. Tổ quốc hay là chết!"
Đầu tháng 4 năm 1963, Che cùng một số người khác rời Cuba đi Congo. Tại đây, sau những dự định không thành, họ đã rút đi (tháng 11 năm 1965). Tháng 3 năm 1966 Che đến Praha (Tiệp Khắc), rồi bí mật trở về Cuba (tháng 7 năm 1966) lên kế hoạch cho chiến dịch Bolivia.
Đầu tháng 10 năm 1967, Che và một số chiến hữu dùng thông hành giả để đến La Paz (thủ đô của Bolivia). Từ La Paz họ bí mật vào rừng thành lập một nhóm du kích quân, với mục đích tạo nên một hạt nhân đấu tranh thí điểm nhằm giải phóng cả châu Mỹ Latinh. Sau 11 tháng chiến dịch - từng chi tiết hoạt động được Che ghi lại trong nhật ký mà sau này được phổ biến rộng rãi với tên "Nhật ký của Che Guevara tại Bolivia" - dần dần tổ chức của ông bị bại lộ và cuối cùng thất bại.
Với chiến thuật phục kích tổ chức của Che đã giành thắng lợi một số trận nhỏ. Nhưng do có phần tử nội phản, căn cứ và hoạt động của tổ chức bị phát hiện. Tránh sự truy quét của kẻ địch, tổ chức quyết định chuyển căn cứ. Tổ chức của ông bị cô lập. Mọi người bị thiếu lương thực trầm trọng và bệnh tật. Chính ông bị cơn suyển là căn bệnh cố hữu hành hạ mỗi lúc một nguy ngập vì thiếu thuốc men. Cả nhóm phải giết ngựa, lừa là phương tiện tải quân trong rừng, để ăn. Các đồng chí thân cận bên ông dần dần bị tử trận. Cuối cùng, ông bị bắt ngày 7 tháng 10 năm 1967 trong tình trạng bị thương ở chân, sau một cuộc giao tranh trong lúc ông và các chiến hữu đang tìm đường thoát ra khỏi rừng ở vùng Quebrada del Yuro. Ông thậm chí không thể tự sát: khẩu carbine của ông đã bị một loạt đạn pháo bắn nát. Ông bị giam giữ suốt đêm tại ngôi trường trong làng. Trong tình trạng tuyệt vọng, Che vẫn giữ vững niềm tin về tính đúng đắn của sự nghiệp mà ông theo đuổi.[4]
Bị Tình báo Hoa Kỳ hành quyết[sửa]
Ông bị hành quyết sau đó theo chỉ thị của CIA. Theo Felix Rodriguez, một trong các điệp viên CIA ở Bolivia đã phát hiện căn cứ của quân du kích và ra mệnh lệnh tử hình các chiến sĩ cách mạng, thì Che Guevara, lúc đó đã bị thương và áo quần rách nát.[5] Lời nói cuối cùng của ông với Mario Teran, người thực hiện lệnh xử bắn là: "Cứ bắn đi, đồ hèn, cùng lắm chúng mày chỉ giết được 1 con người thôi"[3]
Để làm cho các vết thương do đạn có vẻ khớp với câu chuyện chính thức công bố, Felix Rodriguez đã lệnh cho người xạ thủ ngắm bắn cẩn thận để các vết thương này trông giống như thể Che đã bị giết trong một cuộc chạm súng với quân đội Bolivia, và như vậy sẽ giúp che giấu vụ ám sát bí mật. Sau đó họ còn chặt đi một bàn tay của Che.[6]
Sau vụ hành hình, hình ảnh ông nằm bất động, đôi mắt vẫn mở to - còn ám ảnh tâm trí hàng triệu người. Trong buổi lễ tưởng niệm ở Rosario, quê hương nơi ông ra đời, linh mục Hernán Benítez đã nói: "Hai phần ba nhân loại bị áp bức bị chấn động vì cái chết của Che. Một phần ba còn lại thuộc về Che hoàn toàn. Che đã đón nhận cái chết với tất cả đặc trưng của những anh hùng thần thoại, những người sống mãi trong lương tâm nhân loại..."[3] Bàn tay này sau đó được gửi cho lãnh đạo Cuba Fidel Castro nhằm uy hiếp ông. Một nhân viên CIA còn cắt một lọn tóc và lấy đi một số kỉ vật của ông (cuối năm 2007, lọn tóc được bán đấu giá hơn 100 ngàn USD, trong khi lọn tóc của cố Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln trước đây chỉ đấu giá được 25.000 USD)
Chính quyền Barrientos chôn giấu xác ông, và mãi đến ba mươi năm sau, vào ngày 17 tháng 10 năm 1997, hài cốt ông cùng bảy người khác tại một ngôi mộ tập thể không được đánh dấu mới được khai quật và tìm thấy, mang về Cuba và mai táng tại Santa Clara, nơi ông đã lập chiến công lớn ở đó, quyết định sự thành công của Cách mạng Cuba.
Nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của chiến dịch Bolivia chính bởi:
- Tổ chức của Che chưa được nhân dân Bolivia lúc đó tin tưởng ủng hộ; chính quyền Cuba hậu thuẫn triệt để; chưa thực sự liên kết được các cuộc đấu tranh
- Lực lượng yếu, trang bị thô sơ, chưa có chiến lược và sách lược đúng đắn phù hợp, trong khi kẻ thù mạnh - lớn
- Thời cơ chưa chín muồi để cách mạng diễn ra rộng khắp và thành công.
Mặc dù thất bại, tên tuổi và ảnh hưởng của Che mỗi ngày một lan rộng khắp châu Mỹ Latinh và cả thế giới. Ông đã trở thành một biểu tượng của sự đấu tranh, của tình nhân ái xả kỷ chống lại áp bức và nghèo đói để đem lại sự công bằng cho mọi người.[7] Có người ví ông như Đông Kihôtê (Don Kyjote) chiến đầu vì người bị áp bức. Trong tài liệu được giải mật gần đây gửỉ Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Lyndon B. Johnson, cố vấn cao cấp Walt Rostow đã gọi quyết định giết hại Che là "ngu xuẩn". Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng thừa nhận sai lầm lớn của Mỹ là đã cho lưu hành bức hình Che Guevara sau khi ông bị giết, nó khiến cho người ta liên tưởng "hình ảnh Chúa Giêsu chịu nạn" vì đức tin của mình.[3]
Học giả phương Tây - Ariel Dorfman đã viết: “Đối với những con người không bao giờ theo bước Che, bị chìm đắm trong thế giới đầy hoài nghi yếm thế, sự tự tư tự lợi và nền công nghiệp tiêu thụ điên cuồng này, còn có gì hấp dẫn hơn thái độ khinh bạc của Che đối với những tiện nghi vật chất và những ham muôn tấm thường. Có thể nói rằng, đó là phẩm chất riêng biệt độc đáo của Che và không thể có bản sao thứ hai của anh trong thế giới này, đây là điều khiến anh trở nên cực kỳ quyến rũ”…
Gia đình[sửa]
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Che là với Hilda Gadea. Hôn lễ được tổ chức ngày 18 tháng 8 năm 1955, lúc đó Hilda đang mang thai. Ngày 15 tháng 2 năm 1956 đứa con đầu lòng chào đời, được đặt tên là Hilda Beatriz. Cuộc hôn nhân tồn tại chưa đến 4 năm, tháng 1 năm 1959 hai người ly hôn.
Tháng 6 năm 1959, Che kết hôn cùng Aleida March, một chiến sĩ cách mạng cùng hoạt động ở Cuba. Hai người có với nhau 4 người con.
Trước khi lên đường, Che đã gửi một bức thư dặn dò con mình mà sau này đã trở nên nổi tiếng. Thư viết:[3]
-
- "Gửi các con của ba...
- Nếu có lần nào các con phải đọc lá thư này là bởi vì ba không còn với các con nữa.
- Có thể các con sẽ không nhớ gì về ba và các con bé hơn thì chắc sẽ không nhớ gì.
- Ba của các con là một người hành động như suy nghĩ và chắc chắn đã trung thành với những niềm tin của mình. Các con hãy lớn lên như những người cách mạng chân chính. Hãy học thật nhiều... Hãy nhớ rằng cách mạng là điều quan trọng nhất và nếu mỗi người chúng ta chia rẽ thì không có nghĩa lý gì...
- Ba chào các con và vẫn mong gặp lại các con..."
Che còn có một con trai với một người tình, lúc đó còn là sinh viên, sau này là nhà báo Lilia Rosa López (1940), sinh năm 1964 ở Havanna, tên là Omar Pérez López. Omar lớn lên trở thành một nghệ sĩ và văn sĩ, và biết mình là con trai của Che vào năm 1989.[8][9][10]
Huyền thoại[sửa]
Những câu nói về Che[sửa]
- "Ông là thành viên hấp dẫn nhất trong bộ ba lãnh đạo. Ông có nụ cười ngọt ngào, buồn buồn làm những người phụ nữ phải nghẹt thở. Che đang lèo lái con tàu Cuba bằng một đầu óc tính toán lạ lùng, bằng tài năng hiếm có, bằng trí thông minh xuất chúng và bằng óc khôi hài thú vị." - Tạp chí Time, ngày 8 tháng 8 năm 1960
- "Đó là một con người chân chính, một người bạn tuyệt vời và là người mà ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể." - Fidel Castro
- "Nếu phải diễn tả hình ảnh tương lai của thế hệ con cháu mà chúng ta muốn chúng trở thành, chúng ta sẽ nói rằng: Hãy giống như Che. Nếu phải bày tỏ lòng mong ước con cháu mình sẽ được giáo dục như thế nào, chúng ta sẽ nói không chút ngần ngại rằng: Chúng ta muốn chúng được giáo dục theo tinh thần của Che." - Fidel Castro, trong buổi lễ tưởng niệm Che, ngày 18 tháng 10 năm 1967.
- "Hình ảnh của Che có thể bị lãng quên, bị đem ra mua bán hay được mọi người sùng bái nhưng nó sẽ tạo nên một bộ phận trong hệ thống đấu tranh cách mạng trên toàn thế giới và bất cứ lúc nào nó cũng có thể khôi phục lại ý nghĩa nguyên thủy của mình." - Edmundo Desnoes.
- "Là con người hoàn thiện nhất trong thời đại chúng ta." - Jean Paul Sartre.
- "Che gợi nhắc chúng ta nhớ đến những điều đã được biết từ thời Spartacus nhưng đã có lúc bị bỏ quên: trong cuộc chiến chống lại sự bất công, nhân loại có thể tìm thấy một bậc thang để nâng cuộc chiến đấu này lên một tầm mức cao hơn, làm cho chúng tốt đẹp hơn, và thay đổi nó thành điều gì đó nhân bản hơn." - Marcos.
- "Sống chiến đấu là định mệnh của cuộc sống dành cho El Che." - Shangzie
- "Đối với những con người không bao giờ theo bước Che, bị chìm đắm trong thế giới đầy hoài nghi yếm thế, sự tự tư tự lợi và nền công nghiệp tiêu thụ điên cuồng này, còn có gì hấp dẫn hơn thái độ khinh bạc của Che đối với những tiện nghi vật chất và những ham muôn tấm thường. Có thể nói rằng, đó là phẩm chất riêng biệt độc đáo của Che và không thể có bản sao thứ hai của anh trong thế giới này, đây là điều khiến anh trở nên cực kỳ quyến rũ." - Ariel Dorfman[11]
Sản phẩm của tinh thần Quốc tế[sửa]
Chính trí thức thiên tả ở Pháp, kể cả Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir, đã ngưỡng mộ Che và góp phần đưa Che thành một huyền thoại, một biểu tượng toàn cầu với phong cách lãng mạn cách mạng tuyệt vời. Che được ngợi ca như một người đã thoát ra khỏi mọi tư tưởng đố kỵ, mọi ràng buộc giai cấp, dân tộc nhỏ nhen, và là người tiên phong cho lý tưởng đấu tranh cho sự tiến bộ của toàn nhân loại.
Sau khi qua đời, Che vẫn sống trong hàng trăm khúc ca, trong những kỉ vật quen thuộc, những cuốn phim - mới đây nhất là cuốn về cuộc đời Che dài hơn 4 tiếng của đạo diễn Steven Soderbergh giành giải Cành cọ Vàng cho diễn viên xuất sắc nhất vào vai Che tại liên hoan phim Cannes. Che vẫn hiện diện trong cuộc sống. Hình ảnh Che có trên các biểu ngữ, trên những tấm áo thun. Ca sĩ nổi tiếng Santana đã mặc chiếc áo in hình Che, đội mũ beret kiểu Che Guevara tại lễ trao giải Oscar năm 2005 được phát đi rộng rãi trên truyền hình Mỹ. Người Bôlivia gọi ông là Thánh Ernest. Tại nhà thờ ở vùng La Higuera nơi Che hy sinh, các tín đồ đã đặt tượng và ảnh Che bên cạnh hình chúa Giêsu và Đức Mẹ Đồng Trinh. Người kinh doanh tranh thủ hình ảnh Che để kiếm tiền. Đã có bia Che, Che Cola, kem Che, bật lửa Zippo Che, mũ Che, áo thun Che, đồng hồ, ví tiền và cả búp bê Che. Có người đã nói đùa: "Chủ nghĩa tư bản nghiến ngấu và xơi tất, kể cả kẻ thù tồi tệ nhất của nó..."[3]
Danh sách tác phẩm[sửa]
Bản mẫu:Bài chi tiết Nguyên gốc do Ernesto "Che" Guevara viết bằng tiếng Tây Ban Nha, sau đó dịch sang tiếng Anh
- A New Society: Reflections for Today's World, Bản mẫu:NbspOcean Press, 1996, ISBN 1-875284-06-0
- Back on the Road: A Journey Through Latin America, Bản mẫu:NbspGrove Press, 2002, ISBN 0-8021-3942-6
- Che Guevara, Cuba, and the Road to Socialism, Bản mẫu:NbspPathfinder Press, 1991, ISBN 0-87348-643-9
- Che Guevara on Global Justice, Bản mẫu:NbspOcean Press (AU), 2002, ISBN 1-876175-45-1
- Che Guevara: Radical Writings on Guerrilla Warfare, Politics and Revolution, Bản mẫu:NbspFiliquarian Publishing, 2006, ISBN 1-59986-999-3
- Che Guevara Reader: Writings on Politics & Revolution, Bản mẫu:NbspOcean Press, 2003, ISBN 1-876175-69-9
- Che Guevara Speaks: Selected Speeches and Writings, Bản mẫu:NbspPathfinder Press (NY), 1980, ISBN 0-87348-602-1
- Che Guevara Talks to Young People, Bản mẫu:NbspPathfinder, 2000, ISBN 0-87348-911-X
- Che: The Diaries of Ernesto Che Guevara, Bản mẫu:NbspOcean Press (AU), 2008, ISBN 1-920888-93-4
- Colonialism is Doomed, Bản mẫu:NbspMinistry of External Relations: Republic of Cuba, 1964, ASIN B0010AAN1K
- Critical Notes on Political Economy: A Revolutionary Humanist Approach to Marxist Economics Bản mẫu:NbspOcean Press, 2008, ISBN 1-876175-55-9
- Episodes of the Cuban Revolutionary War, 1956–58, Bản mẫu:NbspPathfinder Press (NY), 1996, ISBN 0-87348-824-5
- Guerrilla Warfare: Authorized Edition Bản mẫu:NbspOcean Press, 2006, ISBN 1-920888-28-4
- Latin America: Awakening of a Continent, Bản mẫu:NbspOcean Press, 2005, ISBN 1-876175-73-7
- Marx & Engels: An Introduction, Bản mẫu:NbspOcean Press, 2007, ISBN 1-920888-92-6
- Our America And Theirs: Kennedy And The Alliance For Progress, Bản mẫu:NbspOcean Press, 2006, ISBN 1-876175-81-8
- Reminiscences of the Cuban Revolutionary War: Authorized Edition Bản mẫu:NbspOcean Press, 2005, ISBN 1-920888-33-0
- Self Portrait Che Guevara, Bản mẫu:NbspOcean Press (AU), 2004, ISBN 1-876175-82-6
- Socialism and Man in Cuba, Bản mẫu:NbspPathfinder Press (NY), 1989, ISBN 0-87348-577-7
- The African Dream: The diaries of the Revolutionary War in the Congo Bản mẫu:NbspGrove Press, 2001, ISBN 0-8021-3834-9
- The Argentine, Bản mẫu:NbspOcean Press (AU), 2008, ISBN 1-920888-93-4
- The Bolivian Diary of Ernesto Che Guevara Bản mẫu:NbspPathfinder Press, 1994, ISBN 0-87348-766-4
- The Diary of Che Guevara: The Secret Papers of a Revolutionary, Bản mẫu:NbspAmereon Ltd, ISBN 0-89190-224-4
- The Great Debate on Political Economy, Bản mẫu:NbspOcean Press, 2006, ISBN 1-876175-54-0
- The Motorcycle Diaries: A Journey Around South America, Bản mẫu:NbspLondon: Verso, 1996, ISBN 1-85702-399-4
- The Secret Papers of a Revolutionary: The Diary of Che Guevara, Bản mẫu:NbspAmerican Reprint Co, 1975, ASIN B0007GW08W
- To Speak the Truth: Why Washington's "Cold War" Against Cuba Doesn't End, Bản mẫu:NbspPathfinder, 1993, ISBN 0-87348-633-1
Chú thích[sửa]
- ↑ Casey 2009, p. 128.
- ↑ Kellner 1989, p. 73.
- ↑ 3,0 3,1 3,2 3,3 3,4 3,5 http://baotintuc.vn/tu-lieu/che-guevara-nguoi-anh-hung-huyen-thoai-ky-1-bat-tu-20130526233801243.htm
- ↑ “Che Guevara: người tìm kiếm mạo hiểm và làm nên lịch sử”. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
- ↑ Nhân viên CIA kể lại vụ giết Che Guevara
- ↑ "CIA man recounts Che Guevara's death", BBC News, 8 tháng 10 năm 2007, http://news.bbc.co.uk/2/hi/americas/7027619.stm
- ↑ Ariel Dorfman, Che Guevara bất tử, bài trên tạp chí Time 100, Tuổi trẻ dịch lại
- ↑ Kristin Dykstra: Omar Pérez and the Name of the Father. In: Jacket Magazine Nr. 35, 2008, abgerufen am 10. Juli 2015 (englisch)
- ↑ Michael J. Casey: Che's Afterlife: The Legacy of an Image. Vintage, London 2009, S. 285–297 (englisch)
- ↑ Che Guevara’s son on Cuba’s coming identity crisis. In: PBS vom 7. Juli 2015 (englisch)
- ↑ “Che Guevara: Anh hùng và huyền thoại”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định..
Tham khảo[sửa]
- Alekseev, Aleksandr (tháng 10 năm 1984). "Cuba después del triunfo de la revolución" ("Cuba after the triumph of the revolution"). Moscow: America Latina.
- Almudevar, Lola (9 tháng 10 năm 2007). "Bolivia marks capture, execution of 'Che' Guevara 40 years ago". San Francisco Chronicle.
- Anderson, Jon Lee (1997). Che Guevara: A Revolutionary Life. New York: Grove Press. ISBN 0-8021-1600-0.
- Bamford, James (2002). Body of Secrets: Anatomy of the Ultra-Secret National Security Agency (Reprint edition). New York: Anchor Books. ISBN 0-385-49908-6.
- BBC News (17 tháng 1 năm 2001). "Profile: Laurent Kabila". Truy cập 10 tháng 4 năm 2008.
- BBC News (26 tháng 5 năm 2001). Che Guevara photographer dies. Truy cập 4 tháng 1 năm 2006.
- BBC News (9 tháng 10 năm 2007). "Cuba pays tribute to Che Guevara". BBC News, International version.
- Beaubien, Jason (2009). Cuba Marks 50 Years Since 'Triumphant Revolution'. NPR: All Things Considered, Audio Report. http://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=98937598.
- Ben Bella, Ahmed (tháng 10 năm 1997). "Che as I knew him". Le Monde diplomatique. mondediplo.com. Truy cập 28 tháng 2 năm 2008.
- Bockman, USMC Major Larry James (1 tháng 4 năm 1984). The Spirit of Moncada: Fidel Castro's Rise to Power 1953-1959. United States: Marine Corps Command and Staff College.
- Casey, Michael (2009). Che's Afterlife: The Legacy of an Image. Vintage. ISBN 0307279308.
- Castañeda, Jorge G (1998). Che Guevara: Compañero. New York: Random House. ISBN 0-679-75940-9.
- Castro, Fidel (editors Bonachea, Rolando E. and Nelson P. Valdés; 1972). Revolutionary Struggle 1947–1958. Cambridge, Massachusetts and London: MIT Press. ISBN 0-262-02065-3.
- Crompton, Samuel (2009). Che Guevara: The Making of a Revolutionary. Gareth Stevens. ISBN 143390053X.
- Cuban Information Archives. "La Coubre explodes in Havana 1960". Truy cập 26 tháng 2 năm 2006; pictures can be seen at Cuban site fotospl.com.
- DePalma, Anthony (2006). The Man Who Invented Fidel: Castro, Cuba, and Herbert L. Matthews of the New York Times. New York: Public Affairs. ISBN 1-58648-332-3.
- Dorfman, Ariel (14 tháng 6 năm 1999). Time 100: Che Guevara. Time Inc.
- Dorschner, John and Roberto Fabricio (1980). The Winds of December: The Cuban Revolution of 1958. New York: Coward, McCann & Geoghegen. ISBN 0-698-10993-7.
- Dumur, Jean (interviewer) (1964). L'interview de Che Guevara (Video clip; 9:43).
- Gálvez, William (1999). Che in Africa: Che Guevara's Congo Diary. Melbourne: Ocean Press, 1999. ISBN 1-876175-08-7.
- Gómez Treto, Raúl (Spring 1991). "Thirty Years of Cuban Revolutionary Penal Law". Latin American Perspectives 18(2), Cuban Views on the Revolution. 114-125.
- Gott, Richard (2004). Cuba: A New History. Yale University Press. ISBN 0300104111.
- Gott, Richard (11 tháng 8 năm 2005). "Bolivia on the Day of the Death of Che Guevara". Le Monde diplomatique. Truy cập 26 tháng 2 năm 2006.
- Grant, Will (8 tháng 10 năm 2007). "CIA man recounts Che Guevara's death". BBC News. Truy cập 29 tháng 2 năm 2008.
- Guevara, Ernesto "Che" (1995). Motorcycle Diaries. London: Verso Books.
- Guevara, Ernesto "Che" (editor Waters, Mary Alice) (1996). Episodes of the Cuban Revolutionary War 1956–1958. New York: Pathfinder. ISBN 0-87348-824-5.
- Guevara, Ernesto "Che" (1965). "Che Guevara's Farewell Letter".
- Guevara, Ernesto "Che" (1967a). "English Translation of Complete Text of his Message to the Tricontinental"
- Guevara, Ernesto "Che" (1967b). "Diario (Bolivia)". Written 1966–1967.
- Guevara, Ernesto "Che" (editors Bonachea, Rolando E. and Nelson P. Valdés; 1969). Che: Selected Works of Ernesto Guevara, Cambridge, Massachusetts: MIT Press. ISBN 0-262-52016-8
- Guevara, Ernesto (2009). Che: The Diaries of Ernesto Che Guevara. Ocean Press. ISBN 1920888934.
- Guevara, Ernesto "Che" (1972). Pasajes de la guerra revolucionaria.
- Guevara, Ernesto "Che" (translated from the Spanish by Patrick Camiller; 2000). The African Dream. New York: Grove Publishers. ISBN 0-8021-3834-9.
- Guevara, Ernesto "Che" (2005). "Socialism and man in Cuba" (First published 12 tháng 3 năm 1965 as "From Algiers, for Marcha. The Cuban Revolution Today"). Che Guevara Reader. (1997). Ocean Press. ISBN 1-875284-93-1
- Guevara Lynch, Ernesto (2000). Aquí va un soldado de América. Barcelona: Plaza y Janés Editores, S.A. ISBN 84-01-01327-5.
- Hall, Kevin (2004). "In Bolivia, Push for Che Tourism Follows Locals' Reverence". Common Dreams. commondreams.org. Truy cập 15 tháng 11 năm 2008.
- Haney, Rich (2005). Celia Sánchez: The Legend of Cuba's Revolutionary Heart. New York: Algora Pub. ISBN 0-87586-395-7.
- Hari, Johann (6 tháng 10 năm 2007). "Johann Hari: Should Che be an icon? No". The Independent.
- Hart, Joseph (2004). Che: The Life, Death, and Afterlife of a Revolutionary. New York: Thunder's Mouth Press. ISBN 1-56025-519-6.
- Ramonez, Ignacio (2007). Translated by Andrew Hurley. Fidel Castro: My Life London: Penguin Books. ISBN 978-0-14-102626-8
- Ireland's Own (12 tháng 8 năm 2000). From Cuba to Congo, Dream to Disaster for Che Guevara. Truy cập 11 tháng 1 năm 2006.
- Kellner, Douglas (1989). Ernesto "Che" Guevara (World Leaders Past & Present). Chelsea House Publishers (Library Binding edition). 112. ISBN 1555468357.
- Kornbluh, Peter (1997). Electronic Briefing Book No. 5. National Security Archive. Truy cập 25 tháng 3 năm 2007.
- Lacey, Mark (26 tháng 10 năm 2007). "Lone Bidder Buys Strands of Che's Hair at U.S. Auction". New York Times.
- Lacey, Mark (9 tháng 10 năm 2007). "A Revolutionary Icon, and Now, a Bikini". The New York Times.
- Lago, Armando M (tháng 9 năm 2005). "Bản mẫu:PDFlink". Cuba: the Human Cost of Social Revolution. (Manuscript pending publication.) Summit, New Jersey: Free Society Project.
- Lavretsky, Iosif (1976). Ernesto Che Guevara. translated by A. B. Eklof. Moscow: Progress. tr. 5. Bản mẫu:ASIN. OCLC 22746662.
- Luther, Eric (2001). Che Guevara (Critical Lives). Penguin Group (USA). 276. ISBN 002864199X.
- McLaren, Peter (2000). Che Guevara, Paulo Freire, and the Pedagogy of Revolution. Rowman & Littlefield. ISBN 0847695336.
- Mittleman, James H (1981). Underdevelopment and the Transition to Socialism – Mozambique and Tanzania. New York: Academic Press. ISBN 0-12-500660-8
- Moynihan, Michael. "Neutering Sartre at Dagens Nyheter". Stockholm Spectator. Truy cập 26 tháng 2 năm 2006.
- Murray, Edmundo (November-tháng 12 năm 2005). "Guevara, Ernesto [Che] (1928–1967)". Irish Migration Studies in Latin America (www.irlandeses.org).
- Che Guevara, by Frank Niess, Haus Publishers Ltd, 2007, ISBN 1-904341-99-3.
- Niwata, Manabu, Mainichi correspondent (14 tháng 10 năm 2007). Aide reveals Che Guevara's secret trip to Hiroshima. HDR Japan.
- O'Hagan, Sean (11 tháng 7 năm 2004). "Just a pretty face?". The Guardian. Truy cập 25 tháng 10 năm 2006.
- Radio Cadena Agramonte, "Ataque al cuartel del Bayamo". Truy cập 25 tháng 2 năm 2006.
- Ramírez, Dariel Alarcón (1997). Le Che en Bolivie. Paris: Éditions du Rocher. ISBN 2-268-02437-7.
- Ramonez, Ignacio (2007). Translated by Andrew Hurley. Fidel Castro: My Life London: Penguin Books. ISBN 978-0-14-102626-8
- Ratner, Michael (1997). Che Guevara and the FBI: The U.S. Political Police Dossier on the Latin American Revolutionary. Ocean Press. ISBN 1875284761.
- Rodriguez, Félix I. and John Weisman (1989). Shadow Warrior/the CIA Hero of a Hundred Unknown Battles. New York: Simon & Schuster. ISBN 0-671-66721-1.
- Ryan, Henry Butterfield (1998). The Fall of Che Guevara: A Story of Soldiers, Spies, and Diplomats. New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-511879-0.
- Sandison, David (1996). The Life & Times of Che Guevara. Paragon. ISBN 0752517767.
- Schipani, Andres (23 tháng 9 năm 2007). "The Final Triumph of Saint Che". The Observer. (Reporting from La Higuera.)
- Selvage, Major Donald R. – USMC (1 tháng 4 năm 1985). Che Guevara in Bolivia. Globalsecurity.org. Truy cập 5 tháng 1 năm 2006.
- Sinclair, Andrew (1968 / re-released in 2006). Viva Che!: The Strange Death and Life of Che Guevara. Sutton publishing. ISBN 0750943106.
- Snow, Anita (8 tháng 10 năm 2007). "Castro Pays Homage to Che Guevara". ABC News.
- Taibo II, Paco Ignacio (1999). Guevara, Also Known as Che. St Martin's Griffin. 2nd edition. 691. ISBN 312206526.
- Time Magazine (12 tháng 10 năm 1970). "Che: A Myth Embalmed in a Matrix of Ignorance".
- Time Magazine cover story (8 tháng 8 năm 1960). "Castro's Brain".
- U.S. Army (28 tháng 4 năm 1967). Memorandum of Understanding Concerning the Activation, Organization and Training of the 2d Ranger Battalion – Bolivian Army. Truy cập 19 tháng 6 năm 2006.
- U.S. Department of State. Foreign Relations, Guatemala, 1952–1954. Office of Electronic Information, Bureau of Public Affairs. Truy cập 29 tháng 2 năm 2008.
- Vargas Llosa, Alvaro (11 tháng 7 năm 2005). "The Killing Machine: Che Guevara, from Communist Firebrand to Capitalist Brand". The Independent Institute. Truy cập 10 tháng 11 năm 2006.
- "World Combined Sources" (2 tháng 10 năm 2004). "Che Guevara remains a hero to Cubans". People's Weekly World.
- Wright, Thomas C. (2000 Revised edition). Latin America in the Era of the Cuban Revolution. Praeger. ISBN 0275967069.
Liên kết ngoài[sửa]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Che Guevara |
- Che, Guía y Ejemplo: Photos, Songs(mp3) và Videos
- Nhớ Che Guevara trên báo Công an Nhân dân
- Hành trình đi tìm người anh hùng Che Guevara (kỳ 1)
- Hành trình đi tìm người anh hùng Che Guevara (kỳ 2)
- Che Guevara và Việt Nam
Bài liên quan
Liên kết đến đây
- Bài cần trang đổi hướng
- Bài cần trang định hướng
- Wikipedia
- Sinh 1928
- Mất 1967
- Chính trị
- Nhà cách mạng Argentina
- Nhà cộng sản Argentina
- Người theo thuyết vô thần Argentina
- Nhà lãnh đạo Cuba
- Anh hùng Cuba
- Thầy thuốc Cuba
- Người theo chủ nghĩa Marx
- Lãnh tụ Cộng sản
- Bộ trưởng Tài chính
- Nhà lý luận Mác-xít
- Nam giới theo chủ nghĩa nữ giới