Kiểm soát cơn sốt của trẻ

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Sốt là tín hiệu bên ngoài của bệnh, thường là nhiễm trùng (nhưng không phải luôn luôn). Nhiệt độ cơ thể tăng lên chính là cơ chế bảo vệ cơ thể. Cách tốt nhất để giúp trẻ vượt qua cơn bệnh là kiểm soát cơn sốt và có hành động tương ứng. Cần chú ý đến trẻ và triệu chứng bên ngoài, và thực hiện các biện pháp để giúp trẻ cảm thấy thoải mái trong khi hạ sốt.

Các bước[sửa]

Chọn và Sử dụng Dụng cụ đo nhiệt độ[sửa]

  1. Chọn nhiệt kế điện tử. Vì có nguy cơ nhiễm độc thủy ngân nếu nhiệt kế bị vỡ, Viện Nhi khoa Canada và Viện nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị nên dùng nhiệt kế điện tử hơn là nhiệt kế thủy ngân kiểu cũ để đảm bảo an toàn.[1][2]
    • Nhiệt kế thủy ngân phải giữ nguyên 3 phút mới có thể cho kết quả, trong khi nhiệt kế điện tử chỉ cần vài giây. Xét về tính an toàn và tiện lợi, nhiệt kế điện tử là lựa chọn tốt hơn.
    • Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ cũng khuyến nghị nên sử dụng nhiệt kế nhựa hơn là nhiệt kế thủy tinh để tránh khả năng bị vỡ và gây bị thương.
  2. Cần cân nhắc khi kiểm soát cơn sốt của trẻ qua đường hậu môn. Hỏi ý kiến bác sĩ phương pháp nào phù hợp với trẻ. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị nên đo nhiệt độ ở hậu môn bằng nhiệt kế điện tự cho trẻ sơ sinh đến 3 tuổi để có kết quả đo chính xác nhất.[2]
    • Bôi một chút sáp bôi trơn vào hậu môn và đưa nhiệt kế vào bên trong khoảng 2.5 cm.[3]
    • Nếu bạn dùng nhiệt kế điện tử để đo nhiệt độ ở hậu môn, không nên sử dụng cùng nhiệt kế đó để đo nhiệt độ ở miệng. Dán nhãn vào nhiệt kế để tách riêng.[2]
  3. Cân nhắc sử dụng nhiệt kế đo nhiệt độ qua trán. Nhiệt kế đo nhiệt độ qua trán, hay dụng cụ đo nhiệt độ ở trán, sử dụng tia hồng ngoại để đo độ nóng ở động mạch chủ thái dương.[4] Tuy nhiên, những loại nhiệt kế này có thể sẽ đắt hơn, nên phổ biến hơn là dùng nhiệt kế đo ở miệng hoặc ở tai.
    • Nhiệt kế trán có thể sử dụng cho trẻ từ ba tháng tuổi trở lên.[2]
  4. Ôm và vuốt ve trẻ. Trẻ bị ốm rất bất an và thường sẽ thích được ôm. Đặt trẻ vào lòng và vuốt ve trẻ sẽ giúp bạn đo nhiệt độ dễ hơn vì trẻ sẽ bình tĩnh và hợp tác hơn.[1]
    • Cho trẻ bú hoặc kể chuyện sẽ giúp trẻ nhỏ bình tĩnh và không để ý. Những trẻ lớn hơn có thể ôm bạn và rúc vào bạn.
  5. Đo nhiệt độ ở miệng hoặc hậu môn. Nhiệt kế đo ở miệng sẽ cho kết quả đáng tin (gần chính xác như khi đo ở hậu môn), dễ đo hơn mà không làm trẻ cảm thấy quá sợ hãi.[5] Với trẻ dưới 3 tuổi, nên cân nhắc đo nhiệt độ ở hậu môn cho trẻ. [2]
    • Nhiệt độ dưới cánh tay, hay ở nách, có thể thấp hơn nhiệt độ ở hậu môn đến 2 độ. Đây không phải là phương pháp đo nhiệt độ đáng tin như khi đo ở miệng hay hậu môn.[2]
    • Thanh đo nhiệt độ ở miệng sẽ được đặt ở dưới lưỡi để không bị răng cắn vào hay bị đè xuống, giữ yên tại chỗ cho đến khi thanh đo kêu bíp hoặc sau 2-3 phút.
  6. Sử dụng nhiệt kế đo ở tai cho trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên. Nhiệt kế điện tử đo ở tai cũng rất thuận tiện và đáng tin cậy khi dùng để đo nhiệt độ cho trẻ. Dạng nhiệt kế này sẽ đo nhiệt độ ở ống tai và màng tai bên trong tai.[2]
    • Hơi kéo nhẹ tai xuống và ra phía sau để ống tai mở rộng cho kết qua đo chính xác hơn. Đưa nhiệt kế vào bên trong vài mm rồi dừng lại. Kết quả đo nhiệt độ ở tai sẽ cho ra nhanh chóng, khi hoàn thành sẽ có tiếng bíp, và thường kết quả đo được chỉ kém chính xác chút ít so với kết quả đo ở hậu môn.[1]
    • Trẻ bị nhiễm trùng tai thì nhiệt độ ở tai đó sẽ cao hơn vì thế nên đo ở tai bên kia nếu có thể.[6] Nếu bị nhiễm trùng cả hai tai, hãy dùng phương pháp khác để đo nhiệt độ cho trẻ.
  7. Kiểm tra nhiệt độ của trẻ thường xuyên. Mỗi 4 tiếng lại đo nhiệt độ. Ghi lại kết quả để có thể kiểm soát cơn sốt đã hạ hay vẫn tăng.
    • Nhiệt độ bình thường là đến 37.2 độ C. Sốt nhẹ là đến 38.3 độ C và thông thường cơn sốt sẽ từ 38.4 độ C đên 39.7 độ C.[3]
    • Sốt cao là cơn sốt trên 39.8C và nên có can thiệp từ cán bộ y tế khi dùng thuốc vẫn không thể hạ sốt, hoặc nếu trẻ rất yếu khi sốt cao.
  8. Nhận biết được quá trình biến đổi nhiệt độ hằng ngày. Nhiệt độ cơ thể bạn thấp nhất vào buổi sáng sau một đêm nghỉ ngơi và cao nhất trước khi lên giường sau một ngày hoạt động và làm việc bình thường của cơ thể. Đừng quá hoảng hốt nếu thân nhiệt trẻ tăng thêm vài độ giữa hai khoảng thời gian này (khi nhiệt độ cơ thể trẻ vẫn dưới 39.8 độ C).[5]

Giữ cho Trẻ Cảm thấy Thoải mái[sửa]

  1. Cần đảm bảo trẻ có đủ nước. Cơn sốt có thể nhanh chóng làm mất nước ở trẻ vì đổ mồ hôi và cơ thể phải làm việc nhiều để chống lại lây nhiễm. Cần giữ cho cơ thể trẻ luôn đủ khả năng chống lại cơn sốt bằng cách cho trẻ uống nhiều chất lỏng.[7]
  2. Cần nhận biết các dấu hiệu và triệu chứng của cơn sốt trước cả yếu tố nhiệt độ. Để ý xem trẻ có bị lạnh, má ửng đỏ và rùng mình không. Đây đều là những phản ứng bình thường khi cơ thể trẻ đang cố gắng chống lại những yếu tố lây nhiễm.[5]
    • Trẻ có thể kêu bị đau cơ hoặc đau khớp, đây đều là phản ứng bình thường khi cơ thể chiến đấu lại cơn sốt.
  3. Cho trẻ tắm nước ấm. Các phương pháp hạ nhiệt độ từ bên ngoài như tắm nước ấm và đắp ít chăn khi ngủ đều là cách hiệu quả giúp trẻ cảm thấy thoải mái trong quá trình đang bị ửng đỏ và đổ mồ hôi do phản ứng với cơn sốt. Tắm bằng nước ấm với miếng bọt biển sẽ giúp trẻ thấy thoải mái hơn.[7] Đừng để trẻ bị lạnh đến độ phải rùng mình, vì như vậy thực tế sẽ làm tăng nhiệt độ cơ thể như một phản ứng mặc định.[1]
    • Các kỹ thuật hạ nhiệt độ đều kích thích tỏa nhiệt nhưng không có tác dụng điều chỉnh nhiệt độ bên trong cơ thể của trẻ vì thế chỉ nên áp dụng như các biện pháp làm dịu bớt cảm giác khó chịu cho trẻ.
    • Bạn có thể sử dụng quạt trong phòng để tăng điều hòa không khí, nhưng đừng để quạt ở nơi thổi thẳng vào trẻ.[7]
  4. Cần chú ý đến hành vi của trẻ. Trẻ có thể muốn ngủ nhiều, đây là phản ứng tốt cho phép cơ thể được nghỉ ngơi và tập trung chiến đấu với nguyên nhân gây ra cơn sốt. Trẻ có hiện tượng đứng không vững và khó đánh thức trẻ dậy, cũng như nếu trẻ không tỉnh táo là những vấn đề rất đáng lo ngại và cần đưa trẻ đến cơ sở y tế ngay.[8]

Điều trị Cơn sốt của trẻ[sửa]

  1. Để cơn sốt tự khỏi. Những cơn sốt dưới 39.5 độ C thường không có hại gì cả. Trong nhiều trường hợp, sốt lại là điều tốt, vì đây là cách cơ thể làm tăng nhiệt độ môi trường để không còn thuận lợi cho các loại mầm bệnh, vi khuẩn và virus.[5]
    • Cơn sốt thường sẽ không gây hại, nó sẽ tự kiểm soát và cũng không cần đến thuốc. Cơn sốt thường sẽ không kéo dài quá một vài ngày.
    • Trẻ sơ sinh dưới 12 tuần tuổi bị sốt từ 38 độ C trở lên cần được đưa đi cấp cứu ngay.[8]
    • Lý do chính cần điều trị cơn sốt là để cho trẻ cảm thấy thoải mái hơn. Nhưng nếu trẻ bị sốt cao (39.8 độ C), bạn nên cân nhắc việc điều trị và đi khám bác sĩ.
  2. Giảm sốt cao hoặc cảm giác không thoải mái do cơn sốt bằng thuốc. Thuốc hạ sốt (chống sốt) có tác dụng điều chỉnh vùng dưới đồi, trung tâm kiểm soát nhiệt độ trong não bộ. Cả thuốc acetaminophen (Tylenol) và ibuprofen (như Motrin, Advil) đều có hiệu quả tốt và giảm được cơn sốt trong vòng từ 1.5 đến 2 giờ.[1] Nếu trẻ bị sốt chưa đến 2 tuổi, hãy hỏi tư vấn bác sĩ nhi trước khi cho trẻ dùng thuốc.[9]
    • Đừng cho trẻ uống aspirin (ASA, acetylsalicylic acid). Những trẻ dùng aspirin có thể mắc phải hội chứng Reye, một hội chứng đe dọa tính mạng gây ra phềnh não và những vấn đề khác. [10]
    • Luôn đảm bảo cho trẻ uống đúng liều lượng. Trẻ không nên dùng cùng liều lượng như người lớn. Liều lượng đều dựa trên độ tuổi và cân nặng nên bạn cần đọc kỹ hướng dẫn trên chai thuốc để xác định liều lượng phù hợp cho con. Hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ nếu bạn không chắc nên cho trẻ uống chừng nào.[11]
    • Không có bằng chứng nào cho thấy uống thuốc thay thế có thể làm giảm sốt nhanh hơn; hơn nữa, nếu dùng như vậy còn dẫn đến sai liều lượng. Cách làm này không được khuyến khích áp dụng với trẻ em.[12]
    • Không được cho trẻ dưới 6 tháng tuổi uống ibuprofen. Nếu trẻ bị nôn hoặc mất nước, không cho trẻ dùng ibuprofen.[9]
  3. Tìm đến nhân viên y tế hoặc cấp cứu nếu cơn sốt không thể kiểm soát được. Đưa trẻ đến bác sĩ nếu trẻ bị sốt cao (trên 40 độ C) không thể giảm xuống 38.3 độ C cho đến 38.9 độ khi đã dùng thuốc. Bạn cũng cần đưa trẻ đến bác sĩ nếu cơn sốt kéo dài quá 24 giờ (với trẻ dưới 2 tuổi) hoặc 3 ngày (với trẻ trên 2 tuổi) hoặc nếu trẻ bị mất nước.[8]
    • Đưa trẻ đi cấp cứu ngay nếu trẻ không tỉnh táo (ngủ lịm), không có phản ứng, khó thở, cứng cổ, bỗng dưng bị mẩn đỏ hoặc trở nặng nghiêm trọng.
  4. Đưa trẻ đến bác sĩ nếu trẻ sốt co giật động kinh. Co giật động kinh là cơn co giật gây ra do nhiệt độ bỗng dưng tăng cao và làm cứng toàn bộ cơ thể, có chuyển động sốc mạnh không chủ ý, mắt trợn ngược, mất ý thức. Cơn co giật động kinh có thể kéo dài 2 phút và trông có vẻ đáng sợ nhưng không nhất định là có nguy hiểm.[13]
    • Nếu trẻ bị co giật, đừng đè trẻ xuống, cố gắng ngừng trẻ lại hoặc đưa thứ gì vào miệng trẻ. Tháo kính ra và nếu có thể hãy đặt vật gì mềm dưới đầu trẻ. Đặt trẻ nằm ngay ngắn nếu có thể. Để nguyên trẻ như vậy và di chuyển các đồ vật hay vật nhọn gần đó. Theo dõi xem cơn co giật kéo dài bao lâu và nói lại với bác sĩ về thời gian. Nếu cơn co giật kéo dài trên 3 phút, hãy gọi cấp cứu ngay.
    • Đưa trẻ đến nhân viên y tế, thậm chí nếu trẻ buồn ngủ và muốn nghỉ ngơi ở nhà. Bác sĩ sẽ muốn hỏi nhiều câu hỏi để tìm ra bất cứ nguyên nhân nào chứ không chỉ là về cơn sốt.
    • Co giật động kinh rất phổ biến và không gây lại đến não bộ hoặc động kinh.

Nguồn và Trích dẫn[sửa]

Liên kết đến đây