Một cách nhìn tiếng Việt "quái gở"?
0.
Mục đích chính của tôi trong bài này là làm một người‚ ngoại đạo’ hiểu hơn một chút về một trong những cách tiếp cận của ngôn ngữ học hiện đại, tức là cách tiếp cận của trường phái ngữ pháp tạo sinh, khởi xướng bởi Noam Chomsky từ những năm 50 và từ đó đến nay đã trở thành gần như một quan niệm tiêu chuẩn về ngôn ngữ mặc dù số người đi theo nó không phải là đa số. Trước hết tôi sẽ nói qua về lý thuyết ngôn ngữ nói chung với tư cách là một lý thuyết khoa học, được xây dựng trên những cách thức và theo đuổi những mục đích bình thường của một khoa học tự nhiên. Sau đó tôi sẽ phân tích một hiện tượng cụ thể trong ngôn ngữ, hiện tượng đề hóa trong tiếng Việt. Xin lưu ý là phân tích của tôi không có gì mới. Nó chỉ có mục đích duy nhất là minh họa một cách cụ thể hơn những gì nói ở phần một. Tôi sẽ đơn giản hóa tối đa những phần động đến lý thuyết chuyên môn, vì vậy nên chắc chắn là sẽ không thể tránh khỏi có những thiếu sót mà tôi hy vọng sẽ bù đắp được phần nào trong phần chú thích.
1.
Những ai đã từng nghe nói về ngôn ngữ học hiện đại đều biết cái tên Noam Chomsky, đều biết đến khái niệm cấu trúc sâu (deep structure), cấu trúc bề mặt (surface structure) và nhất là chuyển vị (movement). Nhiều người còn biết rằng cấu trúc sâu liên quan đến những gì ta nghĩ, cấu trúc bề mặt liên quan đến những gì ta nói, và chuyển vị là thao tác dẫn ta đi từ cấu trúc sâu đến cấu trúc bề mặt.
Thực ra cấu trúc sâu không có gì là sâu sắc cả. Nó chỉ là một phương tiện lý thuyết để giải quyết một số những vấn đề gặp phải trong việc mô tả kiến thức ngôn ngữ mà thôi. Ví dụ cho một câu hỏi như who did John see. Khi nghe câu này, ta biết rằng who là đối tượng của see. Ngoài ra, ta còn biết rằng trong tiếng Anh, đối tượng của động từ thường đứng sau động từ, ví dụ ta biết rằng trong câu John saw Mary, Mary là đối tượng của hành động nhìn, là người bị nhìn. Hai cách giải quyết vấn đề có vẻ hợp lý nhất là (a) nói rằng đối tượng có thể đứng sau hoặc đứng trước động từ, và (b) nói rằng đối tượng luôn luôn đứng sau động từ nhưng trong một vài trường hợp nó được phát âm ở chỗ khác. [1]
Nếu chúng ta chọn (a), chúng ta sẽ mô tả who did John see và John saw Mary bằng hai quy luật khác nhau. Nếu chọn (b), chúng ta sẽ mô tả cả hai câu bằng một quy luật và ngoài ra, đối với câu who did John see, chúng ta sẽ áp dụng một phép chuyển hóa để đưa đối tượng của động từ lên đầu câu. Nếu chọn (a), chúng ta sẽ có hai cấu trúc A và B hoàn toàn không liên quan gì đến nhau. Nếu chọn (b), chúng ta sẽ có một cấu trúc A và một cấu trúc A', và A' chính là A sau khi qua quá trình chuyển hóa. Chomsky đã chọn (b). Có thể thấy rằng nếu theo cách giải quyết (b), câu who did John see, khi chưa qua chuyển hóa, có một cấu trúc giống với câu John saw Mary. Cấu trúc này là cấu trúc sâu, và thao tác chuyển hóa ở đây được gọi là chuyển vị (movement). [2]
Về mặt logic thì không có cơ sở gì để nói rằng (a) hơn hay (b) hơn. Chomsky đã chọn (b) thuần túy vì ông thấy rằng làm như vậy, chúng ta mô tả được kiến thức ngữ pháp chính xác hơn, kinh tế hơn, và hợp với linh cảm của người sử dụng ngôn ngữ hơn. [3]
Những khái niệm cấu trúc sâu, cấu trúc bề mặt, hay chuyển vị, là những khái niệm lý thuyết. Ta chỉ có thể hiểu được chúng, cũng như nói về chúng, trong khuôn khổ của cái lý thuyết trong đó chúng hình thành và đóng một vai trò nhất định. Cũng như khái niệm sức hút chỉ có nghĩa trong khuôn khổ vật lý Newton. Nếu tự nhiên nói trái đất hút mặt trăng thì nghe sẽ rất giống già làng. Có thể coi 'chuyển vị' hay 'sức hút' là những ẩn dụ, những cách diễn đạt tiện lợi nhất cho việc mô tả hay giải thích những hiện tượng nhất định, và một lý thuyết khoa học là một câu chuyện. Ta chỉ hiểu được ẩn dụ khi ta hiểu câu chuyện, hiểu ý của tác giả mà thôi.
Trong khoa học tự nhiên, quá trình bí hiểm nhất là quá trình đi từ các dữ liệu quan sát đến một lý thuyết mô tả và giải thích được chúng. Quá trình này được một số các nhà triết học gọi là context of discovery. Theo họ, context of discovery không thể trở thành mục tiêu tìm hiểu của triết học được bởi đó là một quá trình tâm lý chủ quan không tuân theo một quy luật nhất định nào. [4] Thật vậy, nếu có thể có những quy luật giúp ta đi từ dữ liệu quan sát đến lý thuyết thì ai cũng có thể trở thành một Einstein nếu chịu khó vào phòng thí nghiệm đọc các số đo. Câu hỏi của khoa học tự nhiên không phải là 'làm thế nào để đi từ dữ liệu D đến một lý thuyết mô tả và giải thích D', mà là 'lý thuyết nào mô tả và giải thích D hay hơn.' Nhà khoa học tự nhiên không có nhiệm vụ nói anh ta đi đến lý thuyết ra sao, anh ta chỉ có nhiệm vụ nói lý thuyết của anh ta mô tả và giải thích các hiện tượng ra sao và nó tốt hơn các lý thuyết khác ở điểm nào.
Những điều này vẫn luôn được coi là tất nhiên từ thuở khai sinh của khoa học tự nhiên. Nhưng trong ngôn ngữ học thì lại có một giai đoạn trong đó tình hình khác hẳn. [5] Trong một thời gian, những nhà ngôn ngữ học nổi tiếng nhất đặt mục tiêu là tìm ra những quy tắc máy móc giúp ta đi từ những dữ liệu quan sát được trong một ngôn ngữ L đến một lý thuyết về L. Những quy tắc này sau được gọi là discovery procedures. Những discovery procedures gồm những phương pháp, hay những trắc nghiệm, giúp ta tìm ra được cấu trúc các câu và cuối cùng là cấu trúc của một tập hợp các câu, i.e. một ngôn ngữ. Nhà ngôn ngữ học có nhiệm vụ cho thấy tại sao anh lại gán cho một chuỗi âm thanh S cấu trúc A, tức là anh phải cho biết anh đã dùng những trắc nghiệm gì đối với S để đi được đến A.
Theo tôi, đóng góp lớn nhất của Chomsky là làm được (phần lớn) các nhà nghiên cứu ngôn ngữ quay trở lại với cách suy nghĩ bình thường của một người làm khoa học. Trong Chomsky (1957), ông lập luận rằng discovery procedures là một mục tiêu quá cao đối với một môn khoa học, và không có lý do gì để nghĩ ngôn ngữ học là một ngoại lệ. [6] Các nhà ngôn ngữ học không nên hỏi 'làm thế nào để tìm ra cấu trúc của câu S'; họ chỉ nên hỏi 'dùng cấu trúc nào cho S thì mô tả và giải thích được các hiện tượng hay hơn.' Khả năng giải thích các hiện tượng của cách phân tích A đối với câu S biện minh cho việc coi A đúng là cấu trúc của S. Đây là một điểm tuy đơn giản nhưng hết sức quan trọng. Nếu không hiểu nó thì sẽ không thể hiểu được ngôn ngữ học hiện đại.
Một điểm quan trọng nữa là sự phân biệt giữa (i) những gì người bản ngữ (native speakers) nói và (ii) những gì người bản ngữ biết là có thể nói được. Tuy (i) rất quan trọng, nhưng (ii) còn quan trọng hơn, vì nó mới là mục tiêu cuối cùng của ngôn ngữ học. (i) giúp chúng ta đoán ra (ii), nhưng để đoán ra (ii) nhiều khi ta phải cho người bản ngữ đối mặt với những câu họ chưa bao giờ nghe hoặc nói trong đời nhưng lại có khả năng đưa ra nhận xét về chúng. Đây là đặc điểm bình thường nhất của cái gọi là thí nghiệm. Một nhà vật lý sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện ra vườn quan sát lá rơi và hy vọng nhìn ra được quy luật về gia tốc rơi tự do. Những hiện tượng thường ngày bị ảnh hưởng của quá nhiều yếu tố mà ta không biết nên nhiều lúc ta phải tạo ra một môi trường nhân tạo không thể có được trong tự nhiên để tìm ra 'sự thật'. Nhiều người không hiểu cái điểm hết sức đơn giản này nên thường phê bình Chomsky là hay dùng những câu 'chẳng nghe ai nói bao giờ', ví dụ như the teachers asked what attitudes about each other the students had. Họ không hiểu rằng những nhận xét của người bản ngữ về những câu như thế này có thể là cái chìa khóa để tìm ra những quy luật sâu sắc của ngôn ngữ.
2.
Sau phần giới thiệu khá dài dòng ở trên, tôi nghĩ chúng ta đã có đủ 'cơ bản' để đi vào vấn đề chính mang tính thuần túy ngôn ngữ học hơn một chút. Trong tiếng Việt, ta có những kiểu câu sau đây.
(1)
- 1. cơm thì tôi ăn
- 2. về ngôn ngữ học thì tôi đã tìm được hai quyển sách của Cao Xuân Hạo
Ta
có
thể
thấy
là
trong
các
câu
trên,
có
một
thành
phần
trong
câu
được
coi
là
đề
của
câu,
phần
còn
lại
được
coi
là
thuyết.
Đề
đứng
ở
đầu
câu
và
được
nối
với
thuyết
bằng
từ
thì.
Câu
hỏi
là
liệu
ta
có
nên
dùng
khái
niệm
chuyển
vị
để
phân
tích
các
câu
trong
(1)
không.
Đối
với
câu
hỏi
này,
Cao
Xuân
Hạo
(1986)
đã
có
một
câu
trả
lời
dứt
khoát:
‚[theo] các nhà ngữ pháp tạo sinh [thì] Đề [...] là kết quả của những thao tác chuyển hóa [...] gọi là ‚chuyển vị’ (movement) [...] Đối với một ngôn ngữ như tiếng Anh [...] quan niệm Đề như vậy không phải là hoàn toàn vô lý [...] nhưng làm như vậy đối với một ngôn ngữ [...] như tiếng Việt thì sự vô lý đạt đến mức quái gở.’
Ngược lại với Cao Xuân Hạo, tôi cho rằng có ít nhất một số cấu trúc Đề-Thuyết của tiếng Việt có thể được coi là kết quả của chuyển vị, ví dụ như những câu trong (1). Tôi sẽ lập luận rằng vì những cấu trúc này tuân theo đúng những quy luật mà những cấu trúc được coi là kết quả của chuyển vị trong tiếng Anh cũng tuân theo nên ta có bằng chứng là chúng cũng là kết quả của chuyển vị. Xin lưu ý là đây không phải một lập luận logic, dựa trên diễn dịch và vì vậy nhất thiết phải đúng. Tôi không chứng minh được là những câu trong (1) là kết quả của chuyển vị, tôi chỉ đưa ra bằng chứng cho thấy chúng ta có thể tin như vậy mà thôi. Về điểm này ngôn ngữ học cũng không khác gì các môn khoa học tự nhiên khác. Trong ngành y, nếu một người có đủ các triệu chứng của bệnh lao thì chúng ta sẽ tin anh ta bị bệnh lao và dùng những kiến thức về bệnh lao để chữa, mặc dù về logic thì hoàn toàn có thể có một bệnh khác cũng có những triệu chứng như vậy.
2.1.
Trước khi xem xét bằng chứng thứ nhất, chúng ta cần phải làm quen với một số khái niệm sau: chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, và phụ ngữ. Chủ ngữ thường là chủ thể hành động, đứng trước động từ. Vị ngữ là tất cả những gì không phải chủ ngữ. Bổ ngữ thường chỉ đối tượng của động từ và đứng sau động từ. Phụ ngữ thường nói thêm những thông tin không bắt buộc như nơi chốn, thời gian, phong cách... Ví dụ trong câu dưới đây,
(2) Sơn hôn My sau khi xem Titanic
Sơn là chủ ngữ, hôn My sau khi xem Titanic là vị ngữ, My là bổ ngữ và sau khi xem Titanic là phụ ngữ. Ta có thể diễn tả những thông tin này bằng cách dùng ngoặc vuông và subscript như sau.
(3) [câu [chủ ngữ Sơn] [vị ngữ [động từ hôn] [bổ ngữ My] [phụ ngữ sau khi xem Titanic] ] ]
Một quan sát khái quát đúng cho rất nhiều các thứ tiếng là quy luật mang tên CED, viết tắt của conditions on extraction domains. [7] Nôm na thì CED nói rằng trong khi ta có thể chuyển vị một thành phần nằm trong bổ ngữ, ta không thể chuyển vị một thành phần nằm trong chủ ngữ hay phụ ngữ. Ba ví dụ dưới đây sẽ cho thấy điều này. (Tôi sẽ dùng * để đánh dấu một câu không hợp với linh cảm của người bản ngữ, i.e. sai ngữ pháp)
(4)
- 1. I wonder [câu who John saw [bổ ngữ a picture of ___ ]]
- 2. * I wonder [câu who [chủ ngữ a picture of ___ ] is lying on the table]
- 3. * I wonder [câu who John gets angry [phụ ngữ when he sees a picture of ___ ]]
Vậy
nên
chủ
ngữ
và
phụ
ngữ
được
đặt
tên
là
những
hòn
đảo
(island).
Những
hiện
tượng
như
trong
(4b-c)
được
gọi
là
hiệu
ứng
đảo
(island
effects).
Có
thể
thấy
cái
ẩn
dụ
‚đảo’
cũng
là
một
hệ
quả
của
việc
dùng
ẩn
dụ
‚chuyển
vị’.
Những
gì
nằm
trong
một
chủ
ngữ
hay
một
phụ
ngữ
phải
chịu
cùng
một
số
phận
với
Robinson
Crusoe,
tức
là
không
đi
đâu
được.
Ta
có
thể
coi
CED
là
phép
chẩn
đoán
giúp
ta
biết
liệu
một
cấu
trúc
có
phải
là
kết
quả
của
chuyển
vị
hay
không.
[8]
Quay lại với tiếng Việt. Chúng ta sẽ thấy là ít nhất một số cấu trúc Đề-Thuyết của tiếng Việt tuân theo CED, tức là cho thấy hiệu ứng đảo. Cụ thể là những trường hợp như sau.
(5)
- 1. tôi đã tìm được [bổ ngữ hai quyển sách về ngôn ngữ học của Cao Xuân Hạo]
- 2. về ngôn ngữ học thì tôi đã tìm được [bổ ngữ hai quyển sách ___ của Cao Xuân Hạo]
(6)
- 1. [chủ ngữ hai quyển sách về ngôn ngữ học của Cao Xuân Hạo] chắc chắn sẽ gây ra tranh cãi
- 2. * về ngôn ngữ học thì [chủ ngữ hai quyển sách ___ của Cao Xuân Hạo] chắc chắn sẽ gây ra tranh cãi
(7)
- 1. tôi rất vui [phụ ngữ khi tìm được hai quyển sách về ngôn ngữ học của Cao Xuân Hạo]
- 2. * về ngôn ngữ học thì tôi rất vui [phụ ngữ khi tìm được hai quyển sách ___ của Cao Xuân Hạo]
Những
câu
(a)
là
những
câu
'bình
thường',
những
câu
(b)
là
những
câu
có
'đề
hóa'.
Ta
thấy
rằng
ta
chỉ
có
thể
đề
hóa
một
thành
phần
nằm
trong
bổ
ngữ,
nhưng
không
thể
đề
hóa
một
thành
phần
nằm
trong
chủ
ngữ
hay
phụ
ngữ.
[9]
Điểm quan trọng nhất ở đây là nếu ta coi những cấu trúc Đề-Thuyết ở trên là kết quả của chuyển vị thì ta có thể mô tả được hiệu ứng đảo trong (6b) và (7b) bằng CED, một quy luật đằng nào cũng phải có và ngoài ra còn đúng cho rất nhiều các thứ tiếng khác. Nếu ta coi chúng là những cấu trúc cơ bản thì hiệu ứng đảo trong (6b) và (7b) sẽ phải được giải thích bằng cách khác. Cho đến nay tôi chưa thấy có 'cách khác' nào cả.
Vậy coi đề hóa là một thao tác chuyển vị có phải là một sự 'vô lý đạt đến mức quái gở' không? Tôi nghĩ là không. Nếu bảo trái đất hút mặt trăng mà mô tả được chuyển động của các hành tinh thì việc bảo trái đất hút mặt trăng không có gì là quái gở cả. Tại sao lại không coi ít nhất một số trường hợp đề hóa là chuyển vị, nếu nói như vậy có thể mô tả được các hiện tượng trong ngôn ngữ?
2.2.
Bây giờ ta đi đến bằng chứng thứ hai cho thấy một số trường hợp đề hóa là chuyển vị. Cũng như trên, trước hết ta phải làm quen với một vài khái niệm. Những khái niệm này không có gì khó hiểu nhưng cần kiên nhẫn. Tôi xin bạn đọc hãy chịu khó một chút.
Chắc ai cũng biết rằng câu luôn luôn có một cấu trúc. Nói cách khác, câu không chỉ là một chuỗi các từ đứng cạnh nhau, mà các từ này còn 'túm tụm' lại thành từng nhóm khác nhau. Ví dụ trong câu poor John ran away, [10] poor và John nằm trong nhóm A = chủ ngữ, ran và away nằm trong nhóm B = vị ngữ, A và B nằm trong nhóm C = câu. Dùng ngoặc vuông và subscript như trên để diễn tả, ta có (8).
(8) [C [A poor John] [B ran away]]
A, B, C là những thành tố của câu poor John ran away. Ta nói A chứa poor và John, B chứa ran và away, C chứa A và B. Chứa là một quan hệ mang tính bắc cầu (transitive), tức là nếu X chứa Y và Y chứa Z thì X chứa Z. Vậy nên C còn chứa cả poor, John, ran và away.
Ta sẽ dùng quan hệ chứa để định nghĩa một quan hệ khác có tên là chỉ huy (command). Ta nói nếu A là thành tố nhỏ nhất chứa X, A chứa Y và X không chứa Y, thì X chỉ huy Y. [11] Ví dụ trong câu (9),
(9) [A tôi [B đọc sách]]
A là thành tố nhỏ nhất chứa tôi, và ngoài ra A còn chứa cả B, đọc, và sách. Vậy nên ta nói tôi chỉ huy B, đọc, và sách. A cũng là thành tố nhỏ nhất chứa B, nên B cũng chỉ huy tôi. Trong câu (10),
(10) [C [A mẹ tôi] [B đọc sách]]
tôi không chỉ huy B, đọc hay sách, vì thành tố nhỏ nhất chứa tôi là A, và A không chứa B, đọc hay sách.
Khái niệm chỉ huy là một khái niệm hình thức trừu tượng. Câu hỏi là nó có giúp ta được gì trong việc mô tả kiến thức ngôn ngữ không. Câu trả lời là có. Một trong những việc cần đến khái niệm chỉ huy là việc mô tả sự phân bố (distribution) của các loại danh từ. Trong nhiều ngôn ngữ, có một loại danh từ mang tên 'danh từ đối nghịch' (reciprocals). Tiếng Anh có each other, còn tiếng Việt có nhau. Ví dụ nếu Sơn đánh Hưng và Hưng đánh Sơn, và ta gọi Sơn và Hưng là họ, ta có thể nói (11).
(11) [A họ [B đánh nhau]]
Cái đặc biệt của một danh từ đối nghịch R là nó bắt buộc phải có 'quan hệ' với một danh ngữ N nào đấy trong câu, và R chỉ có thể 'quan hệ' với một danh ngữ N khi N chỉ huy R. [12] Trong (11), họ chỉ huy nhau, vậy nên nhau có thể được hiểu là Sơn và Hưng. Nhưng trong câu (12),
(12) [C [A vợ họ] [B đánh nhau]]
họ không chỉ huy nhau, [13] vậy nên ta không thể hiểu câu này là vợ của Sơn đánh Hưng và vợ của Hưng đánh Sơn được. Trong (12), danh ngữ duy nhất chỉ huy nhau là A, vậy nên nhau chỉ có thể có 'quan hệ' với cả cụm từ vợ họ mà thôi. Ta suy ra là (12) chỉ có thể có nghĩa là vợ Sơn đánh vợ Hưng và vợ Hưng đánh vợ Sơn. Dự đoán này hoàn toàn đúng với linh cảm của người bản ngữ.
Bây giờ hãy xem câu sau, tiếp tục dùng đại từ họ để chỉ Sơn và Hưng.
(13) [sách của nhau] thì chắc chắn họ sẽ đọc
Ta gặp một vấn đề. Trong (13), họ không chỉ huy nhau, [14] nhưng ta vẫn hiểu được là Sơn chắc chắn sẽ đọc sách của Hưng và Hưng chắc chắn sẽ đọc sách của Sơn. Nói cách khác, nhau vẫn quan hệ được với họ. Làm thế nào đây? Hay là ta chấp nhận rằng trong một số trường hợp ngoại lệ, R có thể quan hệ với N mà không cần N phải chỉ huy R?
Hãy xem tiếp ví dụ sau.
(14) [sách của nhau] thì chắc chắn vợ họ sẽ đọc.
Câu này rất giống với câu (13), và nếu ta chấp nhận rằng trong một số trường hợp ngoại lệ, R có thể quan hệ với N mà không cần N phải chỉ huy R, thì tại sao trong (14) nhau lại không thể quan hệ được với họ? (14) không thể có nghĩa là vợ Sơn sẽ đọc sách của Hưng và vợ Hưng sẽ đọc sách của Sơn, mà chỉ có thể có nghĩa là vợ Sơn sẽ đọc sách của vợ Hưng và vợ Hưng sẽ đọc sách của vợ Sơn. Nói cách khác là trong (14), nhau chỉ có thể quan hệ được với cả cụm từ vợ họ mà thôi. Liệu ta có nên bảo (14) là một trường hợp ngoại lệ của một trường hợp ngoại lệ không?
Câu trả lời là không. Ta có thể giải thích cả (13) lẫn (14) mà không cần đến bất cứ ngoại lệ nào. Cách giải quyết vấn đề khá đơn giản. Hãy xem những câu sau.
(15)
- 1. [họ [chắc chắn sẽ đọc sách của nhau]]
- 2. [[vợ họ] [chắc chắn sẽ đọc sách của nhau]]
Có
thể
thấy
là
(15a)
và
(15b),
về
khía
cạnh
ngữ
nghĩa
liên
quan
đến
việc
xác
định
sở
chỉ
(reference)
của
nhau,
giống
hệt
với
(13)
và
(14).
Hơn
nữa,
(15a)
và
(15b)
hoàn
toàn
không
có
gì
ngoại
lệ
cả.
Trong
(15a)
họ
chỉ
huy
nhau,
vậy
nên
nhau
có
thể
chỉ
Sơn
và
Hưng.
Trong
(15b),
không
phải
họ
mà
là
cả
cụm
từ
vợ
họ
chỉ
huy
nhau,
vậy
nên
nhau
chỉ
có
thể
chỉ
vợ
Sơn
và
vợ
Hưng
mà
thôi.
Tại
sao
ta
không
nói
rằng
ở
một
tầng
nào
đấy,
tầng
liên
quan
đến
việc
xác
định
sở
chỉ
của
nhau,
(15a)
giống
hệt
(13)
và
(15b)
giống
hệt
(14),
và
(13)
cũng
như
(14)
là
kết
quả
của
một
thao
tác
chuyển
vị
áp
dụng
lên
(15a)
và
(15b).
Tất
nhiên
là
ta
sẽ
nói
như
vậy.
Cụ
thể
hơn,
ta
nói
rằng
(15a)
và
(13),
cũng
như
(15b)
và
(14),
có
chung
một
cấu
trúc
sâu,
và
cấu
trúc
sâu
là
nơi
ta
xác
định
ý
nghĩa
và
sở
chỉ
của
danh
từ
đối
nghịch.
Bạn đọc có thể thấy rằng bằng cách dùng một lý thuyết có các khái niệm như cấu trúc sâu và chuyển vị, chúng ta giải thích được một cách có nguyên tắc những hiện tượng thoạt nhìn có vẻ khá rối loạn của ngôn ngữ. Kết luận cụ thể hơn là trong tiếng Việt, có ít nhất một số cấu trúc Đề-Thuyết có thể được coi là kết quả của thao tác chuyển vị.
3.
Để kết thúc, tôi sẽ nói một chút về cái ý tưởng có lẽ là nổi tiếng nhất của ngôn ngữ học Chomsky, cái vẫn được gọi là 'thuyết bẩm sinh' (innateness hypothesis). Khác với nhiều người nghĩ, Chomsky không hề có một cái thuyết gì như vậy cả. Chomsky đưa ra một lý thuyết về kiến thức ngôn ngữ. Trong cái kiến thức đó, một quy tắc X có bẩm sinh hay không phụ thuộc vào câu hỏi làm thế nào đứa trẻ học tiếng biết được X. Nếu đứa trẻ có thể học X từ những gì nó nghe được thì X không phải bẩm sinh. Nếu đứa trẻ không thể học được X từ những gì nó nghe được thì nó phải tự đoán ra X, và nếu hàng tỉ đứa trẻ khác nhau trên thế giới đều đoán ra X thì rõ ràng là ta có lý do để nói X là một kiến thức bẩm sinh. Ví dụ, đứa trẻ có thể học được từ những gì nó nghe khái niệm bàn là [table] trong tiếng Anh và [tisch] trong tiếng Đức, nhưng nó không thể học được là ngữ pháp có cấu trúc sâu và thao tác chuyển vị. Những dữ liệu trong môi trường ngôn ngữ không thể đủ để giúp nó đi đến kết luận này được. Vậy nên ta nói là khi đứa trẻ học tiếng, nó phải biết trước được là trong ngôn ngữ, có những cấu trúc 'cơ bản' hơn những cấu trúc khác, và người ta có thể dùng các phép 'chuyển hóa' để tạo ra những cấu trúc 'phái sinh', ví dụ như vậy.
Bạn đọc có thể đáp lại rằng ừ thì cứ cho là lý thuyết về kiến thức ngôn ngữ cần phải có khái niệm cấu trúc sâu đi, nhưng đấy cũng chỉ là lý thuyết thôi chứ đâu có phải sự thật. Đồng ý, nhưng thế nào là sự thật? Trái đất hút mặt trăng có phải là sự thật không? Tất nhiên là có, vì sự thật chính là lời giải thích mà lý thuyết hay nhất hiện tại đưa ra. Nếu lý thuyết hay nhất hiện tại nói rằng trong con mắt của một kẻ quan sát đứng tại chỗ, đồng hồ của người ngồi trên tàu hỏa đang di chuyển chạy chậm hơn đồng hồ của người đứng dưới đường, thì sự thật sẽ là như vậy. Còn nếu bảo sự thật là cái ta cảm thấy rõ ràng là phải đúng, thì trái đất sẽ là một cái mâm phẳng và bầu trời sẽ là một cái lồng bàn có gắn những ngôi sao lấp lánh được di chuyển bằng những thiên thần có cánh.
Vì ngôn ngữ là một khả năng bẩm sinh nên chúng ta thấy tất cả những gì chúng ta nói đều rất hợp lý, rất tất nhiên, 'có cái gì đâu', và chúng ta ít khi nghĩ đến câu hỏi tại sao lại nói được thế này mà không nói được thế kia. Hy vọng qua bài viết này, bạn đọc sẽ hiểu hơn về bản chất của ngôn ngữ học hiện đại và nhìn cái khả năng đặc biệt của con người này với một con mắt hơi khác.
Những tài liệu được nhắc đến trong bài[sửa]
- Bloomfield, L. Language. Motilal Banarsidass.
- Cao Xuân Hạo. 1986. Một số biểu hiện của cách nhìn Âu châu đối với cấu trúc tiếng Việt. Trong: Tiếng Việt. Mấy Vấn đề Ngữ âm, Ngữ pháp, Ngữ nghĩa. Nhà xuất bản Giáo dục, 2001.
- Chomsky, N. 1957. Syntactic Structure. Mouton.
- _____. 1981. Lectures on Government and Binding. Mouton de Gruyter.
- _____. 1995. The Minimalist Program. MIT Press.
- Fanselow, G. & Damir Cavar. 2000. Distributed Deletion. Potsdam Universität.
- Huang, C.-T.J. (1982). Logical Relations in Chinese and the Theory of Grammar. MIT Dissertation.
- Kayne, R. 1994. The Antisymmetry of Syntax. MIT Press.
- Lasnik, H & Myung-Kwan Park. 2003. The EPP and the subject condition under sluicing. Linguistic Inquiry. Volume 34, Issue 4.
Chú giải[sửa]
- [1]Nói đúng hơn là nó phải đứng ở chỗ khác vì như vậy nó mới có thể được phát âm, theo Chomsky (1995), chương 3.
- [2]Xin lưu ý là cấu trúc sâu không phải là ý nghĩa, mà cấu trúc bề mặt không phải là âm thanh. Cấu trúc sâu chỉ là đóng góp của phần cú pháp cho ý nghĩa, và cấu trúc bề mặt là đóng góp của nó cho âm thanh, còn bản thân ý nghĩa và âm thanh là kết quả có được sau khi bộ phận ngữ nghĩa và ngữ âm „đọc“ cấu trúc sâu và cấu trúc bề mặt. Khái niệm cấu trúc sâu và cấu trúc bề mặt hiện giờ không còn được dùng nữa, nhưng trong lý thuyết ngữ pháp vẫn có sự phận biệt giữa thao tác xây dựng cấu trúc (structure building) mà kết quả là một cái gì đó từa tựa như cấu trúc sâu ngày xưa, tức là gần với ngữ nghĩa lô-gích (deep semantics), và thao tác thay đổi cấu trúc (structure manipulation) mà kết quả gần giống như cấu trúc bề mặt, tức là gần với âm thanh và ngữ nghĩa giao tiếp (surface semantics).
- [3]Xem Chomsky (1957), chương 5 và 8.
- [4]‘Các nhà triết học’ ở đây chỉ những người theo trường phái logical positivism, tức Wiener Kreis.
- [5]Giai đoạn của trường phái Cấu trúc Mỹ (American Structuralism) trong những năm 30-50. Tất nhiên là đến tận bây giờ vẫn có những nhà nghiên cứu ngôn ngữ bỏ công tìm hiểu những discovery procedures
- [6]Xem Chomsky (1957), chương 6. Trong quyển sách này, Chomsky nói rằng lý thuyết ngôn ngữ có nhiệm vụ đưa ra một thước đo để dựa vào đó chúng ta có thể nói ngữ pháp G1 có ‘hay’ hơn ngữ pháp G2 hay không, đối mặt với một tập hợp dữ liệu. Ẩn ý là đứa trẻ có cái thước đo này trong đầu khi chúng tiếp cận với dữ liệu ngôn ngữ và tìm cách đoán ra một ngữ pháp. Quan điểm này bị bác bỏ sau khi mô hình P&P (Principle and Parameter) ra đời.
- [7]Xem Huang (1982).
- [8]Xin lưu ý là CED chỉ là một khái quát hóa (generalization) chứ không phải một nguyên tắc (principle). Nó chỉ mô tả lại hiện tượng thôi chứ không giải thích được gì cả. Những hiện tượng mà CED mô tả đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Xem chú thích sau.
- [9]Ai cũng phải thấy là (6b) hơn hẳn (7b). Thực ra đó là hai hiện tượng khác nhau, tức là (6b) vi phạm một nguyên tắc khác với (7b). Xem Lasnik & Park cho (6b), xem Stepanov cho (7b). Ngoài ra, ai tinh ý sẽ nhận ra rằng mặc dù (6b) là một câu tồi vì có chuyển vị ra khỏi chủ ngữ, nhưng câu (i) sau đây lại tốt hơn hẳn, mặc dù có vẻ là cũng có chuyển vị khỏi chủ ngữ:
- sách về ngôn ngữ học thì [quyển ___ của Cao Xuân Hạo] chắc chắn sẽ gây tranh cãi - Có thể nói rằng nếu ta di chuyển cả danh từ sách thì CED lại không có tác dụng nữa. Nhưng điều này không đúng, vì (ii) vẫn hoàn toàn không chấp nhận được: - * sách về ngôn ngữ học thì tôi rất vui khi tìm thấy [quyển ___ của Cao Xuân Hạo] Fanselow & Cavar đưa ra một cách giải thích hay cho (i). Stepanov giải thích được (ii).
- [10]Ví dụ của Bloomfield trong Bloomfield (1933).
[11]Nói một cách khác, nếu ta kết hợp A và B để tạo nên một thành tố [C A B], thì A sẽ chỉ huy B và tất cả những gì chứa trong B.
- [12]Xem Chomsky 1981, chương 3.
- [13]Vì thành tố nhỏ nhất chứa họ là A = vợ họ, và A không chứa nhau
- [14]‘Chỉ huy’ dẫn đến ‚đi trước’, nhưng không phải ngược lại (xem Kayne). Vậy nên nếu A không đi trước B thì A không thể chỉ huy B.
Xem thêm[sửa]
- Vài lời nhân bài viết của Trịnh Hữu Tuệ, Cao Xuân Hạo
- Trả lời Cao Xuân Hạo, Trịnh Hữu Tuệ
- Trò chuyện với Cao Xuân Hạo và Trịnh Hữu Tuệ về tiếng Việt, Dũng Vũ