Trịnh Hữu Tuệ trả lời Cao Xuân Hạo về ngữ pháp tiếng Việt

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Trong bài "Vài lời nhân bài viết của Trịnh Hữu Tuệ", tác giả Cao Xuân Hạo nói:

Ở ta, sự dốt nát về ngôn ngữ...có một lý do tự nhiên: đó là sách và bài vở của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa bao giờ viết một câu nào về tiếng Việt...Lác đác trong sách của vài người...có viết về một vài sự thật không thể chối cãi của tiếng Việt, nhưng chẳng có ai thèm nghe, vì cái định kiến cho rằng tiếng Việt chính là tiếng Pháp được coi là một chân lý thiêng liêng hơn cả sự thật khoa học...Cho nên ông Trịnh Hữu Tuệ viết bài ấy là chuyện hoàn toàn hiểu được...

Thật sự tôi cũng không hiểu lắm cái câu cuối cùng này. Trong bài của mình, tôi đưa ra một số hiện tượng trong tiếng Việt và tìm cách giải thích chúng bằng lý thuyết ngôn ngữ. Những hiện tượng này, theo ý tôi, chính là những „sự thật không thể chối cãi được“ của tiếng Việt. Ví dụ, chúng ta không thể chối cãi được là nếu gọi Hưng và Sơn là họ, thì câu sách của nhau thì chắc chắn họ sẽ đọc sẽ mang nghĩa là Hưng chắc chắn sẽ đọc sách của Sơn và Sơn chắc chắn sẽ đọc sách của Hưng, còn câu sách của nhau thì chắc chắn vợ họ sẽ đọc không thể có nghĩa là vợ Sơn sẽ đọc sách của Hưng và vợ Hưng sẽ đọc sách của Sơn, mà chỉ có thể có nghĩa là vợ Sơn sẽ đọc sách của vợ Hưng và vợ Hưng sẽ đọc sách của vợ Sơn, còn câu vợ nhau sẽ đọc sách của họ thì không chấp nhận được. Tất cả những người Việt tôi từng hỏi đều nhất chí về những điểm này. Lý thuyết tôi dùng để giải thích hiện tượng này không chỉ giải thích được tiếng Việt, mà còn giải thích được những hiện tượng tương tự trong những thứ tiếng khác như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung. Đây không phải là một điểm cộng, xét về mặt khoa học, hay sao?

Trong bài viết trên, cũng như trong nhiều bài viết khác của mình, Cao Xuân Hạo luôn xuất phát từ cái tiền giả định là tiếng Việt chắc chắn phải khác hẳn với tiếng Pháp và tiếng Anh. Tiền giả định này luôn đưa ông đến kết luận là bất cứ lý thuyết nào đúng cho tiếng Anh hay tiếng Pháp đều không đúng cho tiếng Việt. Vậy nên ông khẳng định một cách hết sức tự tin là "tiếng Việt ... không thể dùng bất kỳ cái gì của Chomsky được hết."

Có nhiều khả năng giải thích tại sao Cao Xuân Hạo lại có cái tiền giả định này. Khả năng thứ nhất liên quan đến tri thức luận (epistemology) của ông. Có thể Cao Xuân Hạo mang niềm tin hết sức thông thường là con người, khi mới sinh, là một tabula rasa về mặt ngôn ngữ, và tất cả kiến thức ngôn ngữ đều được học từ môi trường. Chỉ khi tất cả những gì ta biết về tiếng Việt đều được học từ môi trường thì tiếng Việt mới có thể khác hẳn tiếng Pháp. Lý do là như sau. Nếu một đứa trẻ không thể học được ngôn ngữ hoàn toàn từ môi trường, thì bắt buộc nó phải có cái gì đó sẵn trong đầu trước giúp nó đoán ra được ngôn ngữ cần học. Ta biết rằng một đứa trẻ có thể học bất kỳ thứ tiếng nào, tiếng Việt hay tiếng Pháp, một cách hoàn hảo. Vậy suy ra là cái mà đứa trẻ có sẵn trong đầu đó phải đủ phổ quát để giúp nó đoán ra cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, phải đúng cho cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Và sự thật là có những quy luật trong ngôn ngữ, ví dụ như quy luật nằm dưới hiện tượng nhắc đến trong đoạn văn trên, không ai có thể học được từ những dữ liệu trong môi trường. Về nguyên tắc, những quy luật này phải đúng cho mọi thứ tiếng, và từ trước đến nay thì chưa có lý do gì để tin là không phải như vậy.

Tiền giả định của Cao Xuân Hạo cũng có thể có một nguồn gốc xã hội học (sociological). Trong bản dịch cuộc nói chuyện giữa Jürgen Habermas và các nghệ sĩ và trí thức Bắc Kinh, dịch giả Trương Hồng Quang có nói trong phần giới thiệu rằng "...điều đáng ngạc nhiên là ngày nay, khi mà trong nội bộ những trí thức hàng đầu của Trung Quốc đang diễn ra các tìm tòi mới mẻ, những đối thoại mang tính cập nhật với phương Tây và các đại biểu tư tưởng, văn hoá quan trọng nhất của nó, trí thức Việt Nam dường như lại huy động mọi tinh hoa của mình để dựng nên những huyền thoại mới về dân tộc và phương Ðông..." Tôi chỉ có thể đồng ý và nói thêm vào rằng việc bảo tiếng Việt khác hẳn với tiếng Pháp, và câu bộ phim được tài trợ bởi PS không phải là tiếng Việt chỉ vì nó giống tiếng Pháp, [1] không nằm ngoài cái xu hướng chung của giới trí thức Việt nam mà các nhà ngôn ngữ học, cụ thể là giáo sư Cao Xuân Hạo, là một phần không phải không điển hình.

Nhưng tiền giả định của Cao Xuân Hạo cũng có thể có một lời giải thích tâm sinh học (psycho-biological). Có thể là ông đơn giản không hiểu Chomsky nói gì, và đã dùng lập luận "nếu ta không hiểu Chomsky nói gì thì có nghĩa là ta kém hoặc Chomsky nói sai, và ta không kém" để suy ra là Chomsky nói sai. [2] Điều này có thể khó tin đối với nhiều bạn đọc, nhưng có lẽ là sau bài này các bạn sẽ không thấy nó khó tin lắm nữa. Hãy xem Cao Xuân Hạo nói gì về Chomsky:

...Chomsky cho rằng trong một câu như Invisible God created the visible world, ở cấu trúc sâu có ba câu là 1. God is invisible; 2. God created the world; 3, The world is visible. Lời khẳng định này đã cho phép tất cả các nhà ngữ học không phải là môn đệ của Chomsky nói rằng ông ta không hề quan tâm chút nào đến ngôn ngữ trong khi tự nhận mình là nhà ngôn ngữ học. Riêng ở đây, ông không thèm biết rằng ta chỉ có một câu duy nhất, còn những cái mà Chomsky gọi là câu tuyệt nhiên không phải là câu, mà là những ngữ đoạn (phrases...) ...Ba phần Invisible God; created the visible world và the visible world đều đã bị đẩy lùi vào hậu cảnh (backgrounded) và do đó không còn là câu nữa mà chỉ là những danh ngữ (noun phrases), hay những vị ngữ (verb phrases)...

Ví dụ Invisible God created the visible world được Chomsky dùng trong cuốn Language and Mind, trang 16-17, [3] khi ông nói về sự giống nhau giữa ngữ pháp triết học thế kỷ 17, cụ thể là Port Royal Grammar, và ngữ pháp tạo sinh (generative grammar) trong những năm 60-70. Tôi xin trích lại đoạn văn, tuy hơi dài nhưng đẹp và sáng sủa một cách tuyệt vời, của Chomsky:

It seems that one of the innovations of the Port-Royal Grammar of 1660... was its recognition of the importance of the notion of the phrase as a grammartical unit... a phrase corresponds to a complex idea and a sentence is subdivided into consecutive phrases, which are further subdivided into phrases...until the level of the word is reached. In this way we derive what might be called "surface structure" of the sentence in question... To use what became a standard example, the sentence "Invisible God created the visible world" contains the subject "invisible God" and the predicate "created the visible world," the latter contains the complex idea "the visible world" and the verb "created," and so on... According to the Port-Royal theory surface structure corresponds only to sound - to the corporeal aspect of language; but when the signal is produced, with its surface structure, there takes place a corresponding mental analysis into what we may call the deep structure, a formal structure that relates directly not to the sound but to the meaning. In the example just given, "Invisible God created the visible world," the deep structure consists of a system of three propositions, "that God is invisible," "that he created the world," "that the world is visible." The propositions that interrelate to form the deep structure are not, of course, asserted when the sentence is used to make a statement; if I say that a wise man is honest, I am not asserting that men are wise or honest, even though in the Port-Royal theory the propositions "a man is wise" and "a man is honest" enter into the deep structure. Rather, these propositions enter into the complex ideas that are present to the mind, though rarely articulated in the signal, when the sentence is uttered.

Ý của Chomsky rõ như ánh sáng ban ngày. Tất nhiên là ông thừa biết, và nhấn mạnh, rằng invisible God không phải là một câu, mà là một ngữ đoạn (phrase). Ngữ đoạn này tương ứng với một mệnh đề (proposition) trong cấu trúc sâu. Mệnh đề này không được tuyên bố (asserted), mà chỉ hiện hữu trong tâm chí (present to the mind) người sử dụng ngôn ngữ khi anh ta phát ngôn. Một mệnh đề present to the mind mà lại not asserted thì chính là một mệnh đề đã được backgrounded, không phải cái gì khác. Tóm lại, Chomsky nói đúng những gì mà Cao Xuân Hạo bảo ông "không thèm biết". Xin lưu ý là Language and Mind là một cuốn sách nhằm vào những người đọc bình thường, không phải các nhà ngôn ngữ học hay các triết gia. Việc Cao Xuân Hạo hiểu sai một đoạn văn đơn giản như thế này đủ để khiến ta nghi ngờ những gì ông nói về Chomsky liên quan đến những tác phẩm chuyên môn và khó hiểu hơn rất nhiều của tác giả này.

Khi nói về các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt nam, Cao Xuân Hạo nói:

...các nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa bao giờ dành ra một phút để quan sát xem thử người Việt nói năng như thế nào... có những tác giả tuyên bố thẳng thừng rằng những câu như Bàn lau rồi hay Tôi tên là Nam đều sai ngữ pháp và thậm chí vô văn hóa. Chẳng qua vì họ thấy không thể phân tích bằng ngữ pháp tiếng châu Âu được mà thôi...

Nếu ta coi đây là một ví dụ nhằm phê bình cung cách làm việc nói chung của các nhà ngôn ngữ học Việt nam, tức là tuyên bố những gì người Việt nói là sai chỉ vì chúng không hợp với lý thuyết mình biết, thì ta sẽ thấy rằng ngoại diên của khái niệm "các nhà ngôn ngữ học Việt nam" ở đây phải là một tập hợp gồm ít nhất, nếu không phải là duy nhất, một phần tử là chính giáo sư Cao Xuân Hạo. Trong bài "Về khái niệm quy tắc ngữ pháp", Cao Xuân Hạo đưa ra một quy tắc là trong một ngữ đoạn vị từ có bổ ngữ trực tiếp, bổ ngữ này chỉ có thể tách ra khỏi vị từ trung tâm bằng một trạng ngữ nếu nó là một danh ngữ được dánh dấu một cách hiển ngôn là không xác định. Xin bạn đọc đừng cuống, thậm chí xin bạn đọc hãy bình tĩnh mà làm quen với cái "quy tắc" này, vì rất có thể con của bạn sẽ phải học 300 quy tắc như thế này, nếu ước mơ của giáo sư Cao Xuân Hạo trở thành sự thật và cuốn sách 300 quy tắc ngữ pháp của tiếng Việt do Tiểu ban Tiếng Việt trong nhà trường thuộc Hội Ngôn ngữ học Thành phố Hồ Chí Minh đang soạn thảo được đưa vào nhà trường để dạy người Việt nói tiếng Việt cho đúng. Quay lại với quy tắc ở trên. Dựa vào nó, Cao Xuân Hạo đưa ra những câu mà ông tuyên bố là "sai" sau đây:

1.

1. Nó gửi cho mẹ bức thư ấy
2. Họ tiếp tục giết trên biển Bắc cá voi xanh.
3. Những người cứu hộ lôi ra từ đống đổ nát các nạn nhân.
4. Họ cần biết sử dụng thành thạo la bàn.


Tất cả những người tôi đã từng hỏi đều nói rằng câu (1a) hoàn toàn ổn. Còn những câu (1b-d) thì chính Cao Xuân Hạo cũng phải bảo rằng "trên các phương tiện truyền thông đại chúng ta được nghe mỗi ngày vài chục câu kiểu như [vậy]..." Tóm lại, đây là những kiểu câu mà người Việt dùng thường xuyên. Ai cũng có thể thấy rằng chúng hoàn toàn ổn về mặt ngữ pháp, và nghe hoàn toàn tự nhiên nếu phát ngôn trong hoàn cảnh dụng ngữ phù hợp. Nhiệm vụ của người làm ngôn ngữ là giải thích cái khả năng cấu tạo và sử dụng những câu như vậy của người Việt, không phải tuyên bố rằng "những câu như thế, phàm là người nói tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ đều không thể chấp nhận được" và nhận xét về những "người Việt" nói "những câu như thế" là "họ chưa bao giờ được học một cách hiển ngôn những quy tắc ngữ pháp hữu quan" và than phiền là nếu "cứ cái đà này", ý là nếu không mau dạy cho trẻ con 300 quy tắc ngữ pháp nói trên, thì "đến một lúc nào đấy không còn có thể xác lập một quy tắc ngữ pháp nào nữa, hay nói một cách khác, tiếng Viết không còn có ngữ pháp nữa – và điều đó cũng có nghĩa là trên thế gian này không còn có một cái gì đáng gọi là "tiếng Việt" nữa." [4]

Để kết thúc, tôi xin nói vài lời bắt nguồn từ ý thức rằng độc giả talawas phần lớn là người Việt nam. Tôi không hề có ý phủ nhận những thành quả về ngôn ngữ học của giáo sư Cao Xuân Hạo. Trong những nhà ngôn ngữ học Việt nam tôi đã từng được biết thì ông là một người xuất sắc. Tuy nhiên, điều đó không loại trừ khả năng ông không hiểu, hoặc hiểu nhầm, một số vấn đề, và có thể bị phê phán. Điều này chỉ có nghĩa là ông không khác gì những nhà khoa học khác. Những gì tôi viết phê bình ông, đối với một số người, có thể nghe hơi thiếu tôn trọng. Tôi thực sự không cố ý như vậy. Tôi chỉ muốn nói ra những gì mình tin là đúng một cách thẳng thắn và không quá nhạt nhẽo. Nếu có hơi "thiếu tôn trọng" thì cũng chỉ vì khả năng hạn chế của ngôn ngữ, nhất là tiếng Việt, trong việc diễn tả nội dung thuần túy và vô cảm, hoặc vì niềm tin sâu sắc của tôi là dù một nhà ngôn ngữ học có đáng được nể trọng đến đâu chăng nữa thì cũng không thể đáng được nể trọng hơn ngôn ngữ học.

Chú giải[sửa]

[1]Trong bài Vài lời về quy tắc ngữ pháp, Cao Xuân Hạo nói „Một câu văn "Tây" đến như Bô phim được tài trợ bởi PS mà còn có người coi là thứ "tiếng Việt trong sáng" thì ngày suy vi của tiếng Việt không còn xa lắm nữa.“
[2]Lập luận này, xét về mặt sinh học, mang lại lợi thế về tiến hóa, và chúng ta ai cũng thừa hưởng cái gien gây ra nó. Trong triết học, Niezsche đã nói nhiều câu mang ý này, ví dụ "...die Falschheit eines Urteils ist uns noch kein Einwand gegen ein Urteil... Die Frage ist, wieweit es lebenfördernd, lebenerhaltend, arterhaltend, vielleicht gar artzüchtend ist..." (Nietzsche, Jenseits von Gut und Böse, Nr. 4). Cám ơn Patrick Raszelenberg vì đã mang lại yên sĩ phi lý thuần cho tôi về Nietzsche.
[3]Cám ơn Trần Thuần vì đã chỉ ra đoạn văn này. Trần Thuần cũng như tôi, "nhớ mang máng đã đọc câu trích Invisible God created the visible world đâu đó". Nhưng anh hơn tôi ở chỗ là anh đã "truy ra nguồn gốc" được cái "đâu đó" ấy.
[4]Xem Cao Xuân Hạo, Vài lời về quy tắc ngữ pháp. Lập luận của Cao Xuân Hạo có vẻ như là nếu như ông không “xác lập” được “quy tắc” cho tiếng Việt thì có nghĩa là tiếng Việt không có ngữ pháp. Và nếu tôi hiểu đúng những gì Cao Xuân Hạo nói, thì nhiệm vụ của nhà ngôn ngữ học là quan sát xem người Việt nói năng như thế nào, dựa vào đó viết ra những quy tắc ngữ pháp hiển ngôn và dạy lại chúng cho người Việt để giúp họ tránh được những câu "sai" mà họ vẫn nói mỗi ngày hàng chục lần. Tôi xin để bạn đọc tự đánh giá mức độ lô-gích của những ý tưởng này.

Các bài liên quan[sửa]

Liên kết đến đây