Vài lời nhân bài viết của Trịnh Hữu Tuệ
Tôi rất mừng khi thấy Talawas bắt đầu đăng những bài có nội dung Ngôn ngữ học. Ở ta có một hiện tượng lạ (tôi biết câu này rất thừa, bởi vì ở ta chỉ có toàn những hiện tượng lạ mà thôi) là những người làm văn học (nghiên cứu hay phê bình) chưa bao giờ thèm chú ý đến ngôn ngữ, mặc dầu ngôn ngữ chính là chất liệu của văn học. Làm văn học mà không biết gì về ngôn ngữ chẳng khác nào làm âm nhạc mà không biết gì về âm thanh (cao độ, khoảng cách, âm giai, hòa âm, điệu thức, v.v.) hay làm hội họa mà không biết gì về mầu sắc, hình thể, đường nét, nhãn giác, viễn cận, bố cục, v.v. Ở ta, sự dốt nát về ngôn ngữ (về tiếng Việt) có một lý do tự nhiên: đó là sách và bài vở của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa bao giờ viết một câu nào về tiếng Việt: tất cả đều dịch từ sách ngữ pháp tiếng Pháp, và các nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa bao giờ dành ra một phút để quan sát xem thử người Việt nói năng như thế nào. Lác đác trong sách của vài người như Trương Vĩnh Ký (1883) hay Phạm Duy Khiêm (trong sách của Trần Trọng Kim & Bùi Kỷ 1940) có viết về một vài sự thật không thể chối cãi của tiếng Việt, nhưng chẳng có ai thèm nghe, vì cái định kiến cho rằng tiếng Việt chính là tiếng Pháp được coi là một chân lý thiêng liêng hơn cả sự thật khoa học.
Cho nên ông Trịnh Hữu Tuệ viết bài ấy là chuyện hoàn toàn hiểu được. Trả lời bài ấy mới là việc khó. Muốn trả lời, phải viết lại dăm chục nghìn trang, trong đó có vài nghìn trang của tôi (và của những người đi theo hướng của tôi) và mấy chục nghìn trang của dăm trăm tác giả phương Tây: những tiền giả định (presuppositions) cần thiết cho một cuộc tranh luận, dù là hời hợt, cũng quá nhiều và quá lớn.
Tuy nhiên, trong chừng mực có thể, tôi cũng xin viết ra đây vài điều quan yếu nhất.
N. Chomsky cho rằng trong một câu như Invisible God created the visible world, ở cấu trúc sâu có ba câu là 1. God is invisible; 2. God created the world; 3, The world is visible. Lời khẳng định này đã cho phép tất cả các nhà ngữ học không phải là môn đệ của Chomsky nói rằng ông ta không hề quan tâm chút nào đến ngôn ngữ trong khi tự nhận mình là nhà ngôn ngữ học. Riêng ở đây, ông không thèm biết rằng ta chỉ có một câu duy nhất, còn những cái mà Chomsky gọi là câu tuyệt nhiên không phải là câu, mà là những ngữ đoạn (phrases hay syntagms). Ngôn ngữ nào cũng có những phương tiện bắt buộc phải dùng để phân biệt câu (sentences hay [simple]clauses) với phi câu (“bất thành cú”), mà U.Weinreich gọi là backgrounding devices. Ba phần Invisible God; created the visible world và the visible world đều đã bị đẩy lùi vào hậu cảnh (backgrounded) và do đó không còn là câu nữa mà chỉ là những danh ngữ (noun phrases), hay những vị ngữ (verb phrases) Và đó cũng chính là một sự phân biệt hết sức quan trọng mà ngay người bản ngữ cũng phải “nhập nội” (internalize – Chomsky) ngay từ đầu.
Năm 1976, Ch. Li & Sandra Thompson cho xuất bản cuốn Subject and Topic với sự tham gia của nhiều tác giả cỡ lớn, trình bày “a new typology of languages”, chia các ngôn ngữ thành bốn loại lớn, trong đó sự tương phản lớn nhất là giữa subject-prominent languges (như các ngôn ngữ Ấn Âu) và topic-prominent languages (như các ngôn ngữ đơn lập – isolating languages). Từ đó, hầu hết các tác giả nghiên cứu tiếng Hán và tiếng Việt đều phân tích câu thành hai phần Ðề-Thuyết.[1]
Làm như vậy, họ đi theo một truyền thống đã có từ những năm 20 với trường Prague và với Sapir (và sau này, ở Mỹ, là Ch. F. Hockett (1958). Cách làm này phù hợp với quan niệm về câu của E.Sapir (1921) như là the linguistic expression of a proposition, và mâu thuẫn với lý thuyết của Chomsky. Trong cuốn A Grammar of Vietnamese (1965) L.Thompson là người đầu tiên thấy rằng tiếng Việt không có grammatical subject như tiếng Ấn Âu, mà chỉ có logical subject (sở đề logic) và do đó mà vô hình trung nhất trí với Sapir và C. Li & S.Thompson.
Tôi đi theo các tác giả này không hẳn là vì không tán thành Chomsky. Mặc dầu ngày nay phần lớn giới ngữ học đã thấy rõ rằng cuộc “cách mạng thứ hai”[2] của ông không đem lại một giải pháp gì đáng tin cậy, Chomsky vẫn là một tài năng lớn[3] . Nhưng những thành công quan trọng nhất của ông nằm trong lĩnh vực hình thái học (morphology), mà tiếng Việt thì lại hoàn toàn không có morphology, cho nên không thể dùng bất kỳ cái gì của Chomsky được hết, trong đó có cái gọi là grammatical subject, nhất là khi người ta nhớ kỹ cách định nghĩa khái niệm này trong ngôn ngữ học truyền thống của châu Âu.
Năm 1991 và 1995, khi ở Pháp, nhân dịp báo cáo về cấu trúc của câu tiếng Việt, tôi phản đối khái niệm topicalization của Chomsky, thì tôi đã gặp được một sự đồng tình hoàn toàn hất trí của tất cả các thính giả có mặt.
Lập luận của tôi là như sau:
Cái hậu tố (suffix) -ize/-ization/-ification (tiếng Việt dịch là -hoá) chỉ dùng được khi nào cái được chuyển hóa là một cái gì không được gọi đúng tên của nó. Chẳng hạn, chỉ có thể nhân cách hoá (personification) một cái gì không phải là người (mà là thần hay chó chẳng hạn). Ðàng này trong một câu như Bàn lau rồi đấy, thì bàn chính là topic, làm sao còn topicalized được nữa? Cái sai là ở chỗ Chomsky không hiểu gì về cấu trúc Ðề-Thuyết, cho nên dùng một thuật ngữ có những presuppositions sai trái.
Cũng nên nói rõ: vì yên trí (một cách vô thức) rằng tiếng Việt 100% là tiếng Ấn Âu, cho nên có những tác giả tuyên bố thẳng thừng rằng những câu như Bàn lau rồi hay Tôi tên là Nam đều sai ngữ pháp và thậm chí vô văn hóa. Chẳng qua vì họ thấy không thể phân tích bằng ngữ pháp tiếng châu Âu được mà thôi. Tôi đã từng chứng minh rằng hai câu này không đồng nghĩa với Tôi đã lau bàn rồi và Tên của tôi là Nam, và do đó không thể coi là transforms của nhau, vì hai câu này nói về hai đề tài (topics hay themes) khác.[4]
Nói tóm lại, bài của Trịnh Hữu Tuệ cũng như những bài sau này của tôi chỉ đúng chỗ trong văn cảnh của một chuyên mục đã có sẵn những bài cơ bản hơn. Ðó là một điều mà tôi rất mong là talawas sẽ làm được.
Chú giải[sửa]
- ↑ Li Charles and Sandra Thompson. Mandarin Chinese. A Functional Reference Grammar. 1981; Dyvik H. J. J, Subject or Topic in Vietnamese. 1984
- ↑ Vào thập kỷ 50, các môn đệ của Chomsky gọi sự ra đời của ngữ pháp sản sinh như vậy (cuộc cách mạng ”thứ nhất” là cấu trúc luận của F. de Saussure, “người cha đẻ của ngôn ngữ học hiện đại”.
-
↑
Cái
“lớn”
nhất
của
ông
có
lẽ
là
trong
quá
trình
xây
dụng
lý
thuyết
của
ông,
ông
luôn
luôn
tiếp
thu
những
cái
mới
để
bổ
sung
và
uốn
nắn
quan
điểm
của
mình,
đến
nỗi
những
sáng
tác
gần
đây
của
ông
không
còn
lại
bao
nhiêu
của
dạng
thức
ban
đầu
(như
trong
Syntactic
structures
(1947).
Ngay
như
lời
tuyên
bố
của
ông
về
quan
điểm
mentalistic
(một
thứ
tội
lỗi
bất
khả
dung
thứ
dưới
mắt
phái
miêu
tả
đang
thống
trị
nền
ngữ
học
Mỹ
hồi
ông
bắt
đầu
viết,
nhưng
lại
được
ông
nhận
làm
quan
điểm
của
mình),
ông
cũng
từ
bỏ
nốt
như
ta
có
thể
thấy
rõ
qua
cách
trình
bày
tuy
đơn
sơ
nhưng
đủ
chính
xác
của
Trịnh
Hữu
Tuệ,
trong
đó
ngữ
pháp
tạo
sinh
được
trình
bày
như
một
thứ
thủ
pháp
thực
dụng
(“hocus-pocus
linguistics”),
mà
nhà
ngữ
học
có
thể
dùng
(nếu
thấy
thích)
chứ
không
phải
một
lý
thuyết
nhằm
đi
tìm
chân
lý
khoa
học
(cf.
“God’s
truth
linguistics”,
vốn
nằm
trong
vốn
tri
thức
chủ
quan
và
không
tự
giác
của
người
bản
ngữ
như
trong
quan
niệm
của
Saussure,
một
người
mentalist
điển
hình.
Muốn thấy rõ hơn những vấn đề được tiền giả định trong bài của Trịnh Hữu Tuệ, xin xem On Understanding Grammar của T. Givón 1979, và luôn thể xem những tác giả mà tôi có dẫn trên. - ↑ Xem bài Linh hồn tiếng Việt, trong Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, Nxb Trẻ, 2001
Các bài liên quan[sửa]
- Một cách nhìn tiếng Việt "quái gở"?, Trịnh Hữu Tuệ
- Trả lời Cao Xuân Hạo, Trịnh Hữu Tuệ