Chủ đề nóng: Phương pháp kỷ luật tích cực - Cổ học tinh hoa - Những thói hư tật xấu của người Việt - Công lý: Việc đúng nên làm - Giáo án Điện tử - Sách giáo khoa - Học tiếng Anh - Bài giảng trực tuyến - Món ăn bài thuốc - Chăm sóc bà bầu - Môi trường - Tiết kiệm điện - Nhi khoa - Ung thư - Tác hại của thuốc lá - Các kỹ thuật dạy học tích cực
- Dạy học phát triển năng lực - Chương trình giáo dục phổ thông
Nhận biết bệnh xơ gan
Từ VLOS
Gan khi bị thương tổn sẽ sản sinh ra mô mới để tự chữa lành, nhưng gan bị xơ thì không có khả năng tự tái tạo vì nó đã bị thay thế bằng các xơ liên kết và thay đổi cấu trúc.[1][2] Bệnh xơ gan giai đoạn đầu có thể đảo ngược bằng cách điều trị nguyên nhân tiềm ẩn đằng sau nó, nhưng bệnh xơ gan giai đoạn cuối thường không thể đảo ngược mà cần phải cấy ghép gan. Nếu không được xử lý, bệnh xơ gan cuối cùng sẽ dẫn đến suy gan và/hoặc ung thư. Nhận biết những dấu hiệu của bệnh xơ gan sẽ giúp bạn xử trí sớm trong giai đoạn còn chữa được.
Mục lục
Các bước[sửa]
Hiểu về các Yếu tố Nguy cơ[sửa]
-
Xem
xét
lượng
cồn
uống
vào.
Cồn
làm
tổn
thương
gan
do
nó
ngăn
chặn
khả
năng
của
gan
trong
việc
xử
lý
tinh
bột,
chất
béo
và
chất
đạm.
Khi
những
chất
này
tích
tụ
trong
gan
đến
mức
nguy
hại,
cơ
thể
sẽ
phản
ứng
với
viêm
phản
ứng,
dẫn
đến
viêm
gan,
xơ
hóa
và
xơ
gan.[3]
Tuy
nhiên,
việc
dùng
chất
cồn
quá
mức
không
đủ
để
phát
triển
bệnh
gan
do
rượu.
Chỉ
1
trong
5
người
uống
nhiều
rượu
phát
triển
bệnh
viêm
gan,
và
1
trong
4
người
phát
triển
bệnh
xơ
gan.[4]
- Nam giới bị coi là “sâu rượu” nếu uống từ 15 ly trở lên trong một tuần. Phụ nữ bị coi như vậy nếu uống từ 8 ly trở lên một tuần.[5]
- Bạn vẫn có thể bị xơ gan ngay cả khi ngừng uống rượu. Tuy nhiên tất cả những người bị xơ gan đều cần kiêng rượu. Điều này sẽ giúp ích cho việc điều trị và lành bệnh, dù ở bất kỳ giai đoạn nào.[6]
- Mặc dù bệnh xơ gan thường gặp ở nam giới, nhưng ở nữ giới thì xơ gan thường là do rượu.[7]
-
Xét
nghiệm
tìm
viêm
gan
B
và
C.[8]
Bệnh
viêm
gan
mạn
tính
và
tổn
thương
gan
do
cả
hai
loại
virus
này
gây
ra
sẽ
phát
triển
thành
xơ
gan
sau
vài
chục
năm.
- Các yếu tố nguy cơ viêm gan B bao gồm quan hệ tình dục không an toàn, truyền máu và dùng chung kim tiêm bị nhiễm. Ở Mỹ và các nước phát triển khác ít có nguy cơ này nhờ tiêm phòng.
- Các yếu tố nguy cơ nhiễm viêm gan C bao gồm sự lây nhiễm từ việc dùng chung kim tiêm, truyền máu, xỏ khuyên tai hoặc xăm mình.
- Xơ gan do viêm gan C là nguyên nhân phổ biến nhất đòi hỏi phẫu thuật ghép gan.
-
Hiểu
mối
liên
quan
giữa
xơ
gan
và
tiểu
đường.
Trong
số
15-30%
bệnh
nhân
xơ
gan,
tiểu
đường
là
yếu
tố
nguy
cơ
phát
triển
bệnh
“viêm
gan
nhiễm
mỡ
không
do
rượu
(NASH).[9]
Tiểu
đường
cũng
thường
dẫn
đến
bệnh
viêm
gan
C
–
nguyên
nhân
phổ
biến
gây
xơ
gan
–
có
thể
là
do
suy
giảm
chức
năng
của
tụy.
- Một nguyên nhân khác gây xơ gan thường liên quan đến tiểu đường là bệnh thừa sắt (hemochromatosis).
- Tình trạng này có đặc điểm là sắt tích tụ ở da, tim, các khớp và tụy. Sự tích tụ sắt ở tụy dẫn đến bệnh tiểu đường.
-
Xem
xét
cân
nặng
của
bạn.
Chứng
béo
phì
dẫn
đến
nhiều
vấn
đề
sức
khỏe
đáng
lo
ngại,
từ
tiểu
đường
type
2
và
bệnh
tim
đến
viêm
khớp
và
đột
quỵ.[10]
Hơn
nữa,
lượng
chất
béo
dư
thừa
trong
gan
sẽ
gây
tổn
thương
và
viêm,
dẫn
đến
phát
triển
bệnh
viêm
gan
nhiễm
mỡ
không
do
rượu.[7]
- Để xác định mình có cân nặng khỏe mạnh hay không, bạn sử dụng phần tính toán BMI (chỉ số khối cơ thể) trên mạng.[11]
- Việc tính toán chỉ số BMI phụ thuộc vào các yếu tố lứa tuổi, chiều cao, giới tính và cân nặng của bạn.
- Biết về nguy cơ của bệnh tự miễn và bệnh tim. Nếu mắc những căn bệnh tự miễn như viêm ruột, thấp khớp hoặc bệnh tuyến giáp, bạn nên cẩn thận. Mặc dù các bệnh này không trực tiếp góp phần gây nên bệnh xơ gan, nhưng chúng làm gia tăng nguy cơ biến chứng từ những rối loạn khác dẫn đến xơ gan.[12] Bệnh tim là một yếu tố nguy cơ của bệnh viêm gan nhiễm mỡ không do rượu dẫn đến xơ gan. Hơn nữa, bệnh tim có liên quan đến chứng suy tim bên phải, có thể dẫn đến gan xung huyết và xơ gan do tim.[13][14]
- Kiểm tra bệnh sử gia đình. Một số căn bệnh gan dẫn đến xơ gan có yếu tố gien di truyền. Bạn nên xem xét bệnh sử gia đình để biết mình có nằm trong nguy cơ bị xơ gan không:[8]
Nhận biết các Triệu chứng và Dấu hiệu[sửa]
-
Nhận
biết
các
triệu
chứng
của
bệnh
xơ
gan.
Nếu
quan
sát
thấy
các
triệu
chứng
này,
bạn
nên
nói
với
bác
sĩ
càng
sớm
càng
tốt.
Bác
sĩ
sẽ
có
những
chẩn
đoán
chuyên
môn
và
nhanh
chóng
bắt
đầu
quá
trình
điều
trị.
Nếu
đang
muốn
biết
một
người
nào
khác
có
bị
xơ
gan
hay
không,
bạn
hãy
đảm
bảo
người
đó
cùng
kiểm
tra
với
bạn,
vì
có
những
triệu
chứng
không
thể
quan
sát
từ
bên
ngoài.
Những
triệu
chứng
của
bệnh
xơ
gan
bao
gồm:[18]
- Kiệt sức hoặc cảm thấy mệt mỏi
- Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu
- Phù chi dưới (sưng)
- Vàng da và mắt (jaundice)
- Sốt
- Ăn không ngon miệng hoặc sụt cân
- Buồn nôn
- Tiêu chảy
- Ngứa nhiều (pruritus)
- Gia tăng vòng bụng
- Lẫn lộn
- Rối loạn giấc ngủ
-
Tìm
dấu
hiệu
tĩnh
mạch
hình
mạng
nhện.[19]
Những
thuật
ngữ
chuyên
môn
hơn
cho
bệnh
trạng
này
là
spider
angiomata,
spider
nevi,
hay
spider
telangiectasias.
Tĩnh
mạch
mạng
nhện
là
những
búi
tĩnh
mạch
bất
thường
tỏa
ra
từ
mạch
máu
trung
tâm
kèm
tổn
thương.
Chúng
thường
xuất
hiện
ở
thân
mình,
trên
mặt
và
chi
trên.[20]
- Để xác định tĩnh mạch mạng nhện, bạn hãy ấn một mảnh kính lên vùng mạch máu nghi ngờ.
- Nốt đỏ ở giữa búi mạch sẽ đập– đỏ lên khi máu chảy vào và sau đó nhạt màu khi máu chảy ra các mạch máu nhỏ hơn.
- Tĩnh mạch mạng nhện lớn và chằng chịt là dấu hiệu của bệnh xơ gan nghiêm trọng.[21][22]
- Tuy nhiên, hiện tượng này cũng thường thấy ở phụ nữ mang thai hoặc người bị suy dinh dưỡng nặng. Đôi khi nó cũng xuất hiện ở cả những người khỏe mạnh.
-
Quan
sát
lòng
bàn
tay
tìm
những
nốt
đỏ.
Ban
đỏ
lòng
bàn
tay
trông
giống
như
những
mảng
đốm
đỏ
hoặc
những
nốt
đỏ
trong
lòng
bàn
tay
do
sự
chuyển
hóa
hormone
giới
tính
thay
đổi
gây
ra.[23]
Ban
đỏ
lòng
bàn
tay
chủ
yếu
xuất
hiện
ở
rìa
lòng
bàn
tay,
dọc
theo
ngón
cái
và
ngón
út,
không
có
ở
giữa
lòng
bàn
tay.
- Các nguyên nhân khác gây ban đỏ lòng bàn tay gồm mang thai, bệnh thấp khớp, bệnh cường tuyến giáp và các vấn đề về máu.[8]
-
Chú
ý
bất
cứ
sự
thay
đổi
nào
ở
móng
tay.
Bệnh
gan
thường
tác
động
lên
da,
nhưng
việc
quan
sát
móng
tay
có
thể
cung
cấp
những
thông
tin
bổ
sung
hữu
ích.
Móng
tay
Muehrcke
có
những
sọc
ngang
màu
nhạt
ở
phần
chân
móng.
Hiện
tượng
này
là
do
việc
sản
xuất
albumin
không
đủ,
mà
công
việc
này
vốn
chỉ
do
gan
đảm
nhiệm.[24]
Khi
ấn
lên
móng
tay,
những
sọc
này
sẽ
nhạt
màu
và
biến
mất
trước
khi
nhanh
chóng
xuất
hiện
trở
lại.
- Ở móng tay Terry, hai phần ba phía chân móng có màu trắng. Một phần ba phần đầu móng có màu đỏ. Hiện tượng này cũng do sự thiếu hụt albumin.
- Đầu ngón tay tròn và/hoặc to ra. Ở dạng nặng, các móng tay có thể có dạng dùi trống, do đó có thuật ngữ “ngón tay dùi trống”. Hiện tượng này thường thấy trong xơ gan ứ mật.
-
Kiểm
tra
các
khớp
xương
dài
xem
có
bị
sưng
không.
Chẳng
hạn
nếu
bạn
thấy
đầu
gối
hoặc
mắt
cá
bị
sưng
tái
đi
lái
lại
nhiều
lần
thì
đó
có
thể
là
dấu
hiệu
của
bệnh
"phì
đại
xương
khớp”
(HOA).
Các
khớp
ngón
tay
và
khớp
vai
có
thể
cũng
có
thể
bị
viêm.
Đây
là
hệ
quả
của
chứng
viêm
mạn
tính
ở
các
mô
liên
kết
xung
quanh
xương,
có
thể
rất
đau
đớn.[25]
- Lưu ý rằng nguyên nhân phổ biến của bệnh HOA là ung thư phổi và nên được loại trừ.
-
Tìm
dấu
hiệu
ngón
tay
cong.
“Co
thắt
Dupuytren”
là
tình
trạng
mô
liên
kết
các
bộ
phận
trong
lòng
bàn
tay
dày
lên
và
co
lại.
Điều
này
ảnh
hưởng
đến
sự
linh
hoạt
của
ngón
tay,
khiến
các
ngón
tay
cong
lại
vĩnh
viễn.
Thông
thường
tình
trạng
này
xảy
ra
ở
ngón
đeo
nhẫn
và
ngón
út,
kèm
theo
đó
là
cảm
giác
đau,
nhức
hoặc
ngứa.
Người
bệnh
khó
cầm
nắm
đồ
vật
vì
bệnh
này
ảnh
hưởng
đến
sức
cầm
nắm.
- Chứng co thắt Dupuytren thường gặp ở bệnh xơ gan do rượu, chiếm khoảng một phần ba trường hợp.[26]
- Tuy nhiên, dấu hiệu này cũng xảy ra ở người hút thuốc, người uống rượu nhưng không bị xơ gan, công nhân có động tác tay lặp đi lặp lại, người bị tiểu đường và người bệnh Peyronie.
-
Kiểm
tra
khối
rắn
ở
vú
nam
giới.
Bệnh
nữ
hóa
tuyến
vú
ở
nam
giới
là
sự
phát
triển
của
mô
tuyến
vú
nở
ra
từ
núm
vú.[8]
Điều
này
dẫn
đến
sự
gia
tăng
hormone
estradiol
và
chiếm
hai
phần
ba
số
ca
xơ
gan.
Tình
trạng
nữ
hóa
tuyến
vú
có
thể
có
biểu
hiện
giống
trường
hợp
nữ
hóa
tuyến
vú
giả
là
hiện
tượng
vú
to
lên
do
mỡ
mà
không
phải
do
gia
tăng
tuyến
vú.
- Để phân biệt hai trường hợp trên, bạn nằm ngửa, đặt ngón cái và ngón trỏ lên mỗi bên vú.
- Từ từ đẩy hai bên vú vào gần nhau. Bạn sẽ sờ thấy đĩa mô đặc, chắc ngay dưới vùng núm vú.
- Nếu bạn sờ thấy khối đó nghĩa là có hiện tượng nữ hóa tuyến vú. Nếu không sờ thấy khối đó nghĩa là nữ hóa tuyến vú giả.
- Các bệnh rối loạn khối u khác, ví dụ như ung thư thường nằm ở những nơi bất thường (không nằm xung quanh núm vú).[27]
- Quan sát các triệu chứng giảm năng tuyến sinh dục ở nam giới.[28] Nam giới mắc các bệnh gan mạn tính như xơ gan sẽ giảm sản xuất testosterone.[29] Những triệu chứng của tình trạng giảm năng tuyến sinh dục bao gồm rối loạn cương dương, vô sinh, giảm ham muốn tình dục và teo tinh hoàn. Tình trạng này cũng có thể do tổn thương tinh hoàn hoặc do các vấn đề ở vùng dưới đồi và tuyến yên.
- Chú ý dấu hiệu đau bụng và đầy hơi. Đây có thể là những dấu hiệu cổ trướng tức là có chất dịch tích tụ trong khoang phúc mạc (khoang bụng).[30] Nếu chất dịch tích tụ nhiều, có thể xảy ra tình trạng thở ngắn.
- Kiểm tra bụng để tìm mạch máu nổi. Caput medusa là tình trạng tĩnh mạch rốn mở khiến máu ứ lại trong hệ thống tĩnh mạch cửa. Lượng máu này sau đó sẽ chuyển hướng vào tĩnh mạch rốn và vào các mạch máu ở thành bụng. Tình trạng này khiến những mạch máu nổi rõ trên bụng. Hiện tượng này gọi là caput medusa, vì hình dạng những mạch máu trông giống như đầu (caput) của Medusa, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp.
-
Hơi
thở
có
mùi
mốc.[31]
Hơi
thở
có
mùi
mốc
cũng
là
do
những
trường
hợp
tăng
huyết
áp
nặng
gây
ra
hiện
tượng
caput
medusa
và
tiếng
thổi
Cruveilhier-Baumgarten.
Mùi
hôi
xuất
phát
từ
chất
dimethyl
sulfide,
là
kết
quả
của
chứng
tăng
huyết
áp.
- Tiếng thổi sẽ nhỏ đi khi bác sĩ ấn lên vùng da trên rốn.
-
Chú
ý
hiện
tượng
vàng
da
và
mắt.
Jaundice
là
tình
trạng
chuyển
màu
vàng
do
nồng
độ
bilirubin
tăng
khi
gan
không
thể
xử
lý
hiệu
quả.
Các
niêm
mạc
có
thể
cũng
sẽ
chuyển
màu
vàng
và
nước
tiểu
trở
nên
sẫm
màu.
- Hiện tượng vàng da cũng có thể là do ăn quá nhiều caroten như cà rốt. Tuy nhiên, cà rốt sẽ không làm tròng trắng mắt chuyển màu vàng như trong trường hợp jaundice.
-
Kiểm
tra
bàn
tay
tìm
triệu
chứng
suy
tư
thế
vận
động
(asterixis).
Yêu
cầu
người
nghi
ngờ
bị
xơ
gan
xòe
hai
bàn
tay
ra
trước
mặt,
lòng
bàn
tay
úp
xuống.
Bàn
tay
của
người
bệnh
sẽ
bắt
đầu
chuyển
động
và
“vẫy”
nơi
cổ
tay
giống
như
cánh
chim.
- Suy tư thế vận động cũng xuất hiện ở hội chứng tăng u -rê máu (uremia) và suy tim nặng.
Chẩn đoán Chuyên môn[sửa]
- Yêu cầu bác sĩ kiểm tra sự thay đổi kích thước của gan hoặc lá lách. Khi thăm dò, gan bị xơ thường sờ thấy cứng và có u cục. Tình trạng splenomegaly (lá lách to lên) là do chứng tăng huyết áp gây ra xung huyết ở lá lách. Cả hai tình trạng này là dấu hiệu của bệnh xơ gan.
-
Đề
nghị
bác
sĩ
kiểm
tra
tiếng
thổi
Cruveilhier-Baumgarten.[32]
Đa
số
các
bác
sĩ
chăm
sóc
sức
khỏe
ban
đầu
không
kiểm
tra
triệu
chứng
này.
Đây
là
tiếng
thổi
trong
các
tĩnh
mạch
nghe
được
bằng
ống
nghe
ở
vùng
thượng
vị
(phần
trung
tâm
phía
trên)
của
bụng.
Cũng
giống
như
caput
medusa,
hiện
tượng
này
là
do
sự
kết
nối
của
các
hệ
thống
tĩnh
mạch
khác
nhau
trong
cơ
thể
gặp
trục
trặc
khi
có
sự
tăng
huyết
áp
trong
các
tĩnh
mạch.
- Bác sĩ sẽ thực hiện thủ thuật Valsalva — một kỹ thuật thăm dò tăng áp lực ổ bụng. Điều này giúp bác sĩ nghe tiếng thổi rõ hơn nếu có.
-
Để
bác
sĩ
làm
xét
nghiệm
máu
tìm
bệnh
xơ
gan.
Bác
sĩ
sẽ
lấy
máu
và
gửi
đến
phòng
xét
nghiệm
để
chẩn
đoán
bệnh
xơ
gan.
Những
xét
nghiệm
này
bao
gồm:
- Xét nghiệm công thức máu toàn bộ để tìm chứng thiếu máu (anemia), giảm bạch cầu (leukopenia), giảm bạch cầu trung tính (neutropenia), và giảm tiểu cầu (thrombocytopenia) thường thấy trong bệnh xơ gan và một số yếu tố khác.
- Xét nghiệm tìm mức men gan (serum aminotransferases enzyme) tăng cao, biểu thị bệnh xơ gan do rượu. Xơ gan do rượu thông thường có tỷ lệ AST/ALT lớn hơn 2.[33][34]
- Đo toàn bộ mức bilirubin so sánh với mức cơ bản cho phép của bạn. Kết quả có thể sẽ là bình thường trong giai đoạn sớm của bệnh xơ gan, nhưng mức độ này sẽ tăng cao khi bệnh xơ gan tiến triển xấu đi. Lưu ý rằng mức bilirubin tăng cao là một dấu hiệu tiên lượng xấu trong bệnh xơ gan mật nguyên phát.[35]
- Đo mức albumin. Sự mất khả năng tổng hợp albumin của gan bị xơ sẽ khiến mức albumin thấp. Tuy nhiên, điều này cũng thấy ở các bệnh nhân suy tim xung huyết, hội chứng thận hư, suy dinh dưỡng và một số bệnh đường ruột.
- Một số xét nghiệm khác bao gồm xét nghiệm alkaline phosphatase, men gan gamma-glutamyl transpeptidase (GGT),[36][37][38] thời gian prothrombin, globulins,[39] serum sodium,[40] và hyponatremia (hạ natri máu).
-
Yêu
cầu
bác
sĩ
xem
xét
hình
ảnh.
Hình
ảnh
của
cơ
thể
có
thể
giúp
nhận
biết
bệnh
xơ
gan,
nhưng
nó
còn
hữu
ích
hơn
trong
việc
phát
hiện
các
biến
chứng
của
bệnh
xơ
gan
như
cổ
trướng.
- Siêu âm chẩn đoán là phương pháp không xâm lấn và dễ tiếp cận. Khi siêu âm sẽ thấy gan bị xơ có kích thước nhỏ và nổi cục. Phát hiện điển hình của bệnh xơ gan là thùy phải co lại và thùy trái to ra. Những cục u nhìn thấy qua siêu âm có thể là lành tính hoặc ác tính và cần phải làm sinh thiết. Siêu âm cũng có thể phát hiện sự gia tăng đường kính tĩnh mạch cửa hoặc hình dạng của các tĩnh mạch nhánh, biểu thị cho sự tăng áp lực tĩnh mạch cửa.[41]
- Kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính thường không được sử dụng trong chẩn đoán xơ gan, vì nó cũng cho thông tin tương tự như trong kỹ thuật siêu âm. Hơn nữa, bệnh nhân còn phải tiếp xúc với bức xạ và chất cản quang. Bạn có thể tham khảo thêm ý kiến khác hoặc hỏi lý do mà bác sĩ đề nghị dùng kỹ thuật này.
- Kỹ thuật chụp cộng hưởng từ thường hạn chế do chi phí cao và sự từ chối của bệnh nhân do thời gian chụp lâu và khó chịu. Mức độ tín hiệu thấp trên hình ảnh T1-weighted cho thấy tình trạng quá tải sắt do bệnh thừa sắt di truyền.[42]
- Làm sinh thiết để chẩn đoán xác định. Kiểm tra các dấu hiệu, triệu chứng và làm xét nghiệm máu là những phương pháp tốt để xác định một trường hợp nghi ngờ xơ gan. Tuy nhiên, cách duy nhất để biết chắc chắn có bị xơ gan không là làm sinh thiết. Sau khi xử lý và xem xét một mẩu gan dưới kính hiển vi, bác sĩ có thể khẳng định bệnh nhân có bị xơ gan hay không.
Tiếp nhận Điều trị Bệnh Xơ gan[sửa]
-
Tuân
theo
hướng
dẫn
của
nhân
viên
y
tế.
Ở
bệnh
xơ
gan,
hầu
hết
các
ca
nhẹ
và
trung
bình
thường
được
điều
trị
ngoại
trú,
trừ
một
vài
trường
hợp
ngoại
lệ.
Nếu
bệnh
nhân
bị
chảy
máu
đường
tiêu
hóa,
nhiễm
trùng
nặng
hoặc
nhiễm
trùng
huyết,
suy
thận
hoặc
thay
đổi
trạng
thái
tâm
thần
thì
cần
điều
trị
nội
trú.[43]
- Bác sĩ sẽ yêu cầu bạn kiêng rượu, chất kích thích và các loại thuốc nếu gan bị nhiễm độc. Bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng này theo từng bệnh nhân. Hơn nữa, một số loại thảo mộc như kava và tầm gửi có thể gây tổn thương thêm cho gan.[44] Thảo luận với bác sĩ về các cách điều trị thảo mộc/ thay thế mà bạn đang dùng.
- Bác sĩ sẽ cho bạn tiêm phòng bệnh phế cầu khuẩn, cúm, viêm gan A và B.
- Bác sĩ sẽ lập phác đồ NASH cho bạn, theo đó bạn sẽ nằm trong kế hoạch giảm cân, tập luyện thể chất và kiểm soát tối ưu lượng lipid và glucose (chất béo và đường/tinh bột).[7]
- Uống thuốc theo hướng dẫn. Như đã đề cập ở phần trên, có nhiều nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến xơ gan. Thuốc mà bác sĩ kê toa cho bạn được kê riêng cho trường hợp của bạn. Những loại thuốc này sẽ điều trị các nguyên nhân tiềm ẩn (Viêm gan B, viêm gan C, xơ gan ứ mật) và các triệu chứng từ bệnh xơ gan và suy gan.
-
Sẵn
sàng
cho
phương
án
phẫu
thuật.
Không
phải
lúc
nào
bác
sĩ
cũng
đề
nghị
phẫu
thuật,
nhưng
việc
này
cần
thiết
khi
xuất
hiện
những
tình
trạng
nhất
định
do
xơ
gan.
Những
tình
trạng
này
bao
gồm:
- Giãn tĩnh mạch và có thể xử lý bằng phẫu thuật thắt tĩnh mạch.
- Cổ trướng, là sự tích tụ chất dịch trong khoang bụng, được xử lý bằng cách chọc hút dịch, một thủ thuật để rút chất dịch ra.
- Suy gan tối cấp, là sự tấn công nhanh của bệnh não gan (sự thay đổi cấu trúc/chức năng gan trong 8 tuần sau khi bệnh xơ gan được chẩn đoán). Tình trạng này đòi hỏi phải ghép gan. [45]
- Ung thư tế bào gan, là sự phát triển ung thư gan. Các nỗ lực điều trị bao gồm sóng điện cao tần (radiofrequency ablation), phẫu thuật cắt bỏ (lấy đi tế bào ung thư) và ghép gan.[45]
-
Biết
tiên
lượng
của
bạn.
Thông
thường
sau
khi
được
chẩn
đoán
xơ
gan,
người
ta
có
thể
trải
qua
5
-20
năm
mà
không
có
hoặc
có
ít
triệu
chứng.[45]
Một
khi
đã
xuất
hiện
những
triệu
chứng
và
biến
chứng
nghiêm
trọng
do
xơ
gan,
bệnh
nhân
thường
sẽ
tử
vong
trong
vòng
5
năm
nếu
không
được
ghép
gan.[45]
- Hội chứng gan thận là một biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra do xơ gan. Thuật ngữ này chỉ sự phát triển của bệnh suy thận ở bệnh nhân gan và cần được điều trị bệnh suy thận.[46]
- Hội chứng gan phổi, một biến chứng nghiêm trọng khác do giãn động mạch phổi ở bệnh nhân gan, dẫn đến hơi thở ngắn và giảm ô-xy huyết (mức ô-xy trong máu thấp). Cách điều trị ở trường hợp này là ghép gan.[47]
Lời khuyên[sửa]
- Không dùng bất cứ loại thuốc nào cho đến khi và trừ khi bác sĩ kê toa. Giữ cho cơ thể hoạt động bằng cách uống vitamin, nước quả và hoa quả.
- Giai đoạn đầu của bệnh xơ gan có thể đảo ngược bằng cách điều trị nguyên nhân tiềm ẩn như kiểm soát tiểu đường, kiêng rượu, chữa bệnh viêm gan và đảo ngược chứng béo phì để lấy lại cân nặng bình thường.
Cảnh báo[sửa]
- Giai đoạn muộn của bệnh xơ gan nói chung là không thể đảo ngược – căn bệnh này và những biến chứng của nó cuối cùng sẽ dẫn đến tử vong, do đó việc phẫu thuật ghép gan là lựa chọn duy nhất để lấy lại sức khỏe và cứu sống bệnh nhân.
Nguồn và Trích dẫn[sửa]
- ↑ https://www.merckmanuals.com/professional/hepatic-and-biliary-disorders/fibrosis-and-cirrhosis/hepatic-fibrosis
- ↑ http://radiopaedia.org/articles/regenerative-nodules-in-liver
- ↑ http://www.liverfoundation.org/education/info/alcohol/
- ↑ Grant BF, Dufour MC, Harford TC: Epidemiology of alcoholic liver disease. Semin Liver Dis 1988;8(1):12-25.
- ↑ http://www.cdc.gov/alcohol/faqs.htm#excessivealcohol
- ↑ http://www.hopkinsmedicine.org/gastroenterology_hepatology/_pdfs/liver/alcoholic_liver_disease.pdf
- ↑ 7,0 7,1 7,2 Domino, F. (n.d.). The 5-minute clinical consult standard 2015 (23rd ed.)
- ↑ 8,0 8,1 8,2 8,3 Agabegi, S. (2013). Step-up to medicine (3rd ed.). Philadelphia: Wolters Kluwer/Lippincott Williams & Wilkins.
- ↑ Petrides AS, Vogt C, Schulze-Berge D, et al. Prognostic significance of diabetes in patients with cirrhosis. Hepatology 1994; 20:119.
- ↑ http://www.webmd.com/diet/obesity/obesity-overview
- ↑ http://www.mayoclinic.org/bmi-calculator/itt-20084938
- ↑ Agabegi, S. (2013). Step-up to medicine (3rd ed.). Philadelphia: Wolters Kluwer/Lippincott Williams & Wilkins.
- ↑ http://radiopaedia.org/articles/nutmeg-liver
- ↑ http://emedicine.medscape.com/article/151792-overview
- ↑ http://www.merckmanuals.com/professional/hematology-and-oncology/iron-overload/hemosiderosis
- ↑ http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/wilsons-disease/basics/definition/con-20043499
- ↑ http://www.nhlbi.nih.gov/health/health-topics/topics/aat
- ↑ http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/cirrhosis/basics/symptoms/con-20031617
- ↑ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/001095.htm
- ↑ Pirovino M, Linder R, Boss C, et al. Cutaneous spider nevi in liver cirrhosis: Capillary microscopic and hormonal investigations. Klin Wochenschr 1988; 66:298.
- ↑ Zaman, A, Hapke, R, Flora, K, et al. Factors predicting the presence of esophageal or gastric varices in patients with advanced liver disease. Am J Gastroenterol 1999; 94:3292.
- ↑ Foutch, PG, Sullivan, JA, Gaines, JA, Sanowski, RA. Cutaneous vascular spiders in cirrhotic patients: correlation with hemorrhage from esophageal varices. Am J Gastroenterol 1988; 83:723.
- ↑ Erlinger, S, Benhamou, J. Cirrhosis: Clinical aspects. In: Oxford Textbook of Clinical Hepatology, Mcintyre, N, Benhamou, J, Rizzetto, M, Rodes, J (Eds), University Press, Oxford 1991. p.380.
- ↑ Fitzpatrick, T, Johnson, R, Polano, M, et al. Color Atlas and Synopsis of Clinical Dermatology: Common and Serious Diseases, Second edition, McGraw Hill, Inc. New York 1994.
- ↑ Epstein, O, Dick, R, Sherlock, S. Prospective study of periostitis (inflammation of the dense fibrous membrane covering the surface of bones) and finger clubbing in primary biliary cirrhosis and other forms of chronic liver disease. Gut 1981; 22:203.
- ↑ Attali, P, Ink, O, Pelletier, G, et al. Dupuytren's contracture, alcohol consumption, and chronic liver disease. Arch Intern Med 1987; 147:1065.
- ↑ Bickley, L., & Szilagyi, P. (2007). Bates' guide to physical examination and history taking (9th ed.). Philadelphia: Lippincott Williams & Wilkins.
- ↑ Van Thiel, DH, Gavaler, JS, Spero, JA, et al. Patterns of hypothalamic-pituitary-gonadal dysfunction in men with liver disease due to differing etiologies. Hepatology 1981; 1:39.
- ↑ http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1411687/
- ↑ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/000286.htm
- ↑ Tangerman, A, Meuwese-Arends, MT, Jansen, JB. Cause and composition of foetor hepaticus. Lancet 1994; 343:483.
- ↑ Groszmann, R, Franchis, R. Portal Hypertension. In: Schiff's Diseases of the Liver, Eighth Edition, Schiff, E, Sorrell, M, Maddrey, W (Eds), Lippincott Williams & Wilkens, Philadelphia 1999. p.415.
- ↑ Sheth, SG, Flamm, SL, Gordon, FD, Chopra, S. AST/ALT ratio predicts cirrhosis in patients with chronic hepatitis C virus infection. Am J Gastroenterol 1998; 93:44.
- ↑ Williams, AL, Hoofnagle, JH. Ratio of serum aspartate to alanine aminotransferase in chronic hepatitis. Relationship to cirrhosis. Gastroenterology 1988; 95:734.
- ↑ Krzeski, P, Zych, W, Kraszewska, E, et al. Is serum bilirubin concentration the only valid prognostic marker in primary biliary cirrhosis?. Hepatology 1999; 30:865.
- ↑ Pratt, D, Kaplan, M. Evaluation of the Liver A: Laboratory Tests. In: Schiff's Diseases of the Liver, Eighth Edition, Schiff, E, Sorrell, M, Maddrey, W (Eds), Lippincott Williams & Wilkens, Philadelphia 1999. p.205.
- ↑ Goldberg, DM. Structural, functional, and clinical aspects of gamma-glutamyltransferase. CRC Crit Rev Clin Lab Sci 1980; 12:1.
- ↑ Barouki, R, Chobert, MN, Finidori, J, et al. Ethanol effects in a rat hepatoma cell line: Induction of gamma-glutamyltransferase. Hepatology 1983; 3:323.
- ↑ Triger, DR, Wright, R. Hyperglobulinaemia in liver disease. Lancet 1973; 1:1494.
- ↑ Asbert, M, Gines, A, Gines, P, et al. Circulating levels of endothelin in cirrhosis. Gastroenterology 1993; 104:1485.
- ↑ Zwiebel, WJ. Sonographic diagnosis of hepatic vascular disorders. Semin Ultrasound CT MR 1995; 16:34.
- ↑ Ernst, O, Sergeant, G, Bonvarlet, P, et al. Hepatic iron overload: Diagnosis and quantification with MR imaging. AJR Am J Roentgenol 1997; 168:1205.
- ↑ Domino, F. (n.d.). The 5-minute clinical consult standard 2015 (23rd ed.).
- ↑ http://umm.edu/health/medical/altmed/condition/cirrhosis
- ↑ 45,0 45,1 45,2 45,3 Domino, F. (n.d.). The 5-minute clinical consult standard 2015 (23rd ed.).
- ↑ http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/000489.htm
- ↑ http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/23190201