Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin/P3.VII.3

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

III. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA[sửa]

1. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử đề nghiên cứu xã hội loài người. Các ông coi sự vận động phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên, điều đó là do quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dẫn tới sự kìm hãm lực lượng sản xuất. Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản. Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản và sự xác lập hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản phát triển nhưng căn cứ vào những điều kiện thực tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ phát triển trung bình và những dân tộc thuộc địa. Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ các nước tư bản chủ nghĩa trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản phải hội tụ đủ các điều kiện sau đây:

Một là, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc,các nước đế quốc không ngừng xâm lược, khai thác thuộc địa, gây ra chiến tranh…Do đó, đã làm xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản và gay gắt của thời đại như: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa; mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân… Ở các nước nông nghiệp lạc hậu và thuộc địa mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa thực dân đế quốc cùng bọn phong kiến tay sai, với một bên là cả dân tộc đang bị nô dịch, bị áp bức, bóc lột.

Hai là, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, hệ tư tưởng Mác-Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức…, làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu nước, giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Như vậy, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản không phải là ngẫu nhiên mà dựa vào những điều kiện lịch sử nhất định.

2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

Dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ phân chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành các hình thái kinh tế - xã hội mà còn chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành các giai đoạn khác nhau. Theo các ông, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”, trên cơ sở diễn đạt tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba thời kỳ: những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ); giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội); giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa cộng sản). a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên lên chủ nghĩa xã hội Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do: Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên áp bức, bóc lột và bất công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có thời kỳ lịch sử nhất định.

Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình độ cao. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp nhưng nó chưa phải là cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ chủ nghĩa tư bản, mà chỉ có thể là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian.

Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội cũ đan xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực kinh tế là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế có nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp với nhau, nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau.

Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các gia cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, ý thức khác nhau, do đó ý thức chính trị của các bộ phận khác nhau cũng có sự khác nhau. Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa - xã hội là sự tồn tại nhiều tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác - Lênin giữ vai trò thống trị vẫn tồn tại các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông… Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp thống trị và các thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã cầm quyền, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp. Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quá trình này phải tuân thủ những đòi hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Đối với những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình này đòi hỏi phải tuân thủ quy luật kinh tế khách quan và tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế để xác định chiến lược, bước đi và nội dung thích hợp. Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội của nhân dân lao động; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ lịch sử. Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại, từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. b. Xã hội xã hội chủ nghĩa Xã hội xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội) là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản có các đặc trưng sau: Cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền sản xuất công nghiệp với trình độ công nghệ hiện đại Mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Nếu công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí lđặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, cao hơn chủ nghĩa tư bản thì cơ sở vật chất kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ của xã hội tư bản chủ nghĩa.Đối với các nước tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển cao là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội Xã hội xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa là hai chế độ xã hội mà ở đó có sự khác nhau về chế độ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu. Ở xã hội xã hội chủ nghĩa đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu còn trong xã hội tư bản chủ nghĩa đó là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xãhội không xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu là xoá bỏ chế độ tưhữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu, vì đây chính là nguồn gốccủa áp bức, bóc lột giá trị thặng dư.Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt lấytư liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư liệu ấy vàotrong tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội, xây dựng quan hệ sản xuấtmới xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sở hữu tư liệu sản xuấttồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, người laođộng làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luậtlao động mới. Tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa,tạo điều kiện cho người lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi íchtập thể và lợi ích toàn xã hội. Trên cơ sở đó tạo ra cách tổ chức lao động mớidựa trên tinh thần tự giác của nhân dân. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vật chất kỹ thuật là nền đại công nghiệp ở trình độ cao, do vậy đòi hỏi kỷ luật lao động chặt chẽ. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho rằng: lao động được tổ chức có kế hoạch, trên tinh thần tự giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động, mặt khác phải đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.

Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động Trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy sản xuất đã phát triển nhưng chưa đủ khả năng thực hiện phân phối theo nhu cầu, do đó nguyên tắc phân phối cơ bản vẫn là phân phối theo lao động. Nguyên tắc phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối dựa trên kết quả lao động mà người lao động đã đóng góp cho xã hội. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản nhất trong chủ nghĩa xã hội nhưng không phải là nguyên tắc phân phối duy nhất. Nguyên tắc phân phối theo lao động vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, đồng thời là một nội dung quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn này. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thực hiện trấn áp các thế lực phản động, các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự giác, tự quản. Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện đoàn kết các dân tộc, tạo sự bình đẳng giữa các dân tộc, không ngừng phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội mà con người giải phóng, và thoát khỏi chế độ áp bức bóc lột; thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội tạo ra những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện. Mục tiêu cao nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, khỏi sự bóc lột về kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Cùng với việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, chủ nghĩa xã hội thực hiện xóa bỏ đối kháng giai cấp, thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng…Tuy nhiên, trong giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa, sự bình đẳng được xác lập trong điều điện xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước do đó, chưa thể có “bình đẳng thực sự”.

c. Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:

Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội tuôn ra dào dạt, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người được giảm nhẹ, thực hiện phân phối theo nhu cầu. Trrong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Khi nào lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi lên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” Về mặt xã hội: Trình độ xã hội phát triển ngày càng cao, con người có điều kiện phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước sẽ tiêu vong. Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế mới có thể có và được thực hiện. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp tục đưa ra những luận giải về mô hình xã hội trong tương lai. Ông cho rằng, khi xã hội đạt được trình độ phát triển cao như vậy, thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy dân chủ cũng không còn, nhà nước luật pháp tự tiêu vong, pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự giác thực hiện. Tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng hoàn toàn, chuyển từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, có điều kiện phát triển toàn diện năng lực và mang hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội.... V.I.Lênin cho rằng, không phải nhà nước tiêu vong ngay một lúc, mà là một quá trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng, nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản” Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về gia đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản, các ông đều nêu lên những điều kiện kinh tế - xã hội đảm bảo cho sự xuất hiện của giai đoạn này. Các điều kiện đó là:

Một là, C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện của giai đoạn này.

Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục tinh thần tự giác của con người...

Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản:”. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính giai cấp của nhà nước, của dân chủ vẫn còn tồn tại. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra các dự báo và luận giải về sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở phân tích quy luật phát triển khách quan của xã hội, đặc biệt là quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, lịch sử phát triển của xã hội luôn luôn chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan trong những điều kiện xác định, từ đó tạo nên tính phong phú đa dạng của tiến trình lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người cũng như của toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình phát triển của lịch sử không bao giờ là con đường thẳng, trái lại nó có thể phải trải qua những bước thăng trầm với những con đường vòng, thậm chí phải trải qua những bước khủng hoảng và thụt lùi tạm thời trên con đường phát triển của nó. Đó là biện chứng của lịch sử. Từ đó, C.Mác đưa ra kết luận: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.



← Mục lục

Phần I: thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin

  1. Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật
  2. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
  3. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
  4. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
  5. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng
  • Chương III: Chủ nghĩa duy vật lịch sử
  1. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
  2. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
  3. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
  4. Hình thái kinh tế-xã hội và quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
  5. Vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
  6. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

Phần II: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

  1. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản
  2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản
  3. Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản - Tích lũy tư bản
  4. Quá trình lưu thông tư bản và khủng hoảng kinh tế
  5. Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
  • Chương VI: Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa Tư bản độc quyền Nhà nước
  1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền
  2. Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước
  3. Đánh giá chung về vai trò và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa Tư bản

Phần III: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chủ nghĩa xã hội

  • Mở đầu
  • Chương VII: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa
  1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
  2. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
  3. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
  4. Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng
  • Chương VIII: Những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
  1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
  2. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
  3. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.