Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin/P3.VIII.3

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
Chia sẻ lên facebook Chia sẻ lên twitter In trang này

III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO[sửa]

1. Vấn đề dân tộc và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

a. Khái niệm dân tộc

Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được hình thành trong lịch sử, là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.

Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất :

Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù;xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc ngườiở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.

Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, sử dụng ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.

b. Hai xu hướng phát triển của dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựngchủ nghĩa xã hội.

Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc như sau:

Xu hướng thứ nhất: Khi mà các tộc người, cộng đồng dân cư có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, thì các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Trên thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.

Xu hướng thứ hai: Sự liên hiệp lại của các dân tộc trong một quốc gia, các dân tộc của nhiều quốc gia nhằm mở rộng, tăng cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh tế giữa các dân tộc.

Hai xu thế này vận động trong một thể thống nhất, mỗi nước vừa có nhu cầu độc lập, tự chủ… nhưng đồng thời vừa phải mở rộng quan hệ với bên ngoài,hòa nhập với cộng đồng quốc tế và ngày càng xích lại gần nhau trên các lĩnh vực. Đây là hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và ngày nay, nó đang có những biểu hiện rất phong phú và đa dạng. Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xuhướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi đến sự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai, tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia trên cơ sở hợp tác bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và hữu nghị.

Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy đấu tranh xoá bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc để giành lấy quyền quyết định vận mệnh của dân tộc mình, đó là quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại - mục tiêu độc lập dân tộc.

Trong thời đại ngày nay, các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau thành những liên minh trên cơ sở lợi ích chung nhất định của các dân tộc. Hơn nữa sự liên minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại như: phòng chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân,chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống dịch bệnh, khủng bố...

c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản do đó giải quyếtvấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.

Nội dung của Cương lĩnh gồm:

Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

Quyền bình đẳng dân tộc là bảo đảm cho mọi dân tộc dù đông người hay ít người, dù có trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế.

Để thực hiện tốt quyền bình đẳng dân tộc đòi hỏi chúng ta phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan và chủ nghĩa phát xít mới.

Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.

Đây là quyền cơ bản thiêng liêng của mọi dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc trước hết là quyền tự quyết về chính trị, tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển cho dân tộc mình, thực hiện quyền làm chủ vận mệnh dân tộc mình mà không một dân tộc nào được quyền dùng áp lực can thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc khác.

Quyền tự quyết dân tộc bao gồm: quyền tự do phân lập và quyền các dân tộc tự nguyện liên hiệp lại thành một liên bang các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, giúp nhau cùng tiến bộ. Do đó, khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân.

Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.

Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

2. Tôn giáo và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo

Tôn giáo trong hình thức đã phát triển là một hiện tượng xã hội bao gồm:

Lễ nghi tôn giáo, tổ chức tôn giáo và ý thức tôn giáo. Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng tôn giáo chủ yếu dưới góc độ chính trị - xã hội, trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác-Lênin. Nếu như triết học Mác-Lênin nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo với tư cách là một loại hình ý thức xã hội nói chung thì chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo như một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân trong xã hội, có quan hệ đến nhiều lĩnh vực khác, trước hết là lĩnh vực chính trị, tư tưởng và đời sống văn hóa tinh thần.

a. Khái niệm tôn giáo

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.

Nói đến tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, trước hết và căn bản nhất là nói đến ý thức tôn giáo. Ý thức tôn giáo đó là những quan điểm, tư tưởng tôn giáo, những tín điều tôn giáo và tâm lý tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là những tình cảm, niềm tin tôn giáo, tập quán tôn giáo và những biểu tượng hoang đường của quần chúng có tín ngưỡng. Những tư tưởng, quan điểm được các nhà thần học đề xướng và phát triển thông qua giáo lý, trong đó thế giới quan tôn giáo được diễn đạt theo quan điểm của các giai cấp nhất định. Nó mang tính chất một hệ tư tưởng, có tác dụng chỉ đạo, cũng cố, phát triển tâm lý tôn giáo. Ngược lại tâm lý tôn giáo là điều kiện cho tư tưởng, giáo lý thâm nhập vào quần chúng. Ý thức tôn giáo thuộc thế giới quan duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm triết học và chủ nghĩa duy tâm tôn giáo giống nhau về nguyên tắc: đều coi thực thể tinh thần nào đó là cái có trước và quyết định vật chất nhưng nó lại khác nhau về hình thức, tính chất và trình độ phản ánh hiện thực.

Ở những giai đoạn nhất định của lịch sử những tôn giáo mới ra đời như những hình thức đặc thù cùng với triết học, nghệ thuật… biểu hiện trình độ phát triển của ý thức xã hội.

Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo cũng mang bản chất riêng của mình:

- Mặt tiêu cực: tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. Tôn giáo phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người, giải thích thế giới bằng niềm tin mà không dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn nên nó không đưa lại cho con người những nhận thức đúng đắn về hiện thực khách quan. Sự phản ánh bế tắc, hư ảo của tôn giáo phần nào hạn chế khả năng lao động sáng tạo của con người.

- Mặt tích cực: Tôn giáo thể hiện nguyện vọng và con đường thực hiện giải phóng quần chúng, trước hết là đời sống tinh thần. Trong tôn giáo chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân đạo, hướng thiện, nhờ đó đáp ứng một phần nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần, đời sống tâm linh của một bộ phận nhân dân, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa của dân tộc.

b. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

Có thể nói, tôn giáo còn tồn tại lâu dài, cả trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu như tôn giáo không mất đi bằng con đường “tự tiêu vong” thì cũng không thể xóa bỏ tôn giáo bằng các sắc lệnh hay bằng biện pháp bạo lực. Các tôn giáo vẫn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây.

Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ nghĩa, trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được.

Những sức mạnh tự phát của thiên nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đến đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa. Tôn giáo trở thành tinh thần của thế giới không có tinh thần.

Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử xã hội loài người. Tín ngưỡng tôn giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Nguyên nhân chính trị - xã hội: Những giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội tôn giáo cũng có khả năng biến đổi để thích nghi theo xu hướng “đồng hành với dân tộc” sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”.

Đấu tranh giai cấp đã và đang diễn ra vô cùng phức tạp, các thế lực chính trị lợi dụng tôn giáo phục vụ mưu đồ chính trị của mình; chiến tranh cục bộ; xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn... nỗi lo sợ chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi để tôn giáo tồn tại.

Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và nhiều giai tầng xã hội với lợi ích khác nhau, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.

Nguyên nhân về văn hóa: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống.

Tín ngưỡng tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, do đó sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội khách quan.

Như vậy, từ những nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu trên chúng ta có thể khẳng định rằng:

- Nhà nước xã hội chủ nghĩa không sử dụng tôn giáo như là công cụ thống trị về mặt tinh thần để thống trị nhân dân; không dùng tôn giáo để củng cố địa vị thống trị của giai cấp công nhân.

- Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là sinh hoạt tinh thần của một bộ phận dân cư được nhà nước tôn trọng.

- Đồng bào có đạo, không có đạo bình đẳng trước pháp luật.

Cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội. Quần chúng nhân dân có đạo đã thực sự trở thành chủ thể của xã hội, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Trên cơ sở đó họ dần được giải thoát khỏi tình trạng mê tín dị đoan, ngày càng có đời sống tinh thần lành mạnh. Đông đảo quần chúng nhân dân có tôn giáo ngày càng có điều kiện tham gia đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa được khơi dậy, tạo nên sức mạnh cùng toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

c. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.

Cùng với vấn đề dân tộc thì tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và đang có những diễn biến phức tạp. Việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, vừa đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt đúng như tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.

Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm sau:

Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Để khắc phục mặt tiêu cực của tôn giáo, trước hết phải không ngừng phát triển khoa học - công nghệ. Trang bị thế giới quan của chủ nghĩa vô thần khoa học cho nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho nhân dân. Phải khắc phục những tiêu cực của tôn giáo bởi vì chủ nghĩa Mác- Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.

Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi công dân theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.

Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp chân chính (tôn giáo hợp pháp và chân chính là những tôn giáo có tổ chức giáo hội được Đảng và nhà nước ta thừa nhận, và nằm trong khối đại đoàn kết dân tộc), đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.

Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn giáo, khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng.

Mặt chính trị thể hiện ở chỗ cần phải kiên quyết đấu tranh với những phần tử phản động, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Năm là, phải có quan diểm lịch sử cụ thể trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng không giống nhau. Quan điểm của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội thường không đồng nhất với nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.


← Mục lục

Phần I: thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin

  1. Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật
  2. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
  3. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
  4. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
  5. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng
  • Chương III: Chủ nghĩa duy vật lịch sử
  1. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
  2. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
  3. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
  4. Hình thái kinh tế-xã hội và quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
  5. Vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
  6. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

Phần II: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

  1. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản
  2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản
  3. Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản - Tích lũy tư bản
  4. Quá trình lưu thông tư bản và khủng hoảng kinh tế
  5. Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
  • Chương VI: Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa Tư bản độc quyền Nhà nước
  1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền
  2. Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước
  3. Đánh giá chung về vai trò và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa Tư bản

Phần III: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chủ nghĩa xã hội

  • Mở đầu
  • Chương VII: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa
  1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
  2. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
  3. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
  4. Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng
  • Chương VIII: Những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
  1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
  2. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
  3. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.
Chia sẻ lên facebook Chia sẻ lên twitter In trang này