Chủ đề nóng: Phương pháp kỷ luật tích cực - Cổ học tinh hoa - Những thói hư tật xấu của người Việt - Công lý: Việc đúng nên làm - Giáo án Điện tử - Sách giáo khoa - Học tiếng Anh - Bài giảng trực tuyến - Món ăn bài thuốc - Chăm sóc bà bầu - Môi trường - Tiết kiệm điện - Nhi khoa - Ung thư - Tác hại của thuốc lá - Các kỹ thuật dạy học tích cực
- Dạy học phát triển năng lực - Chương trình giáo dục phổ thông
Điều trị bệnh đau dây thần kinh chia ba
Từ VLOS
Đau dây thần kinh chia ba là chứng đau mãn tính ảnh hưởng lên dây thần kinh chia ba (lớn nhất trong các dây thần kinh sọ-mặt). Chứng bệnh này có triệu chứng nóng ran, cảm giác như bị đâm và đau rải rác ở nhiều khu vực khác nhau trên mặt. Bệnh đau dây thần kinh chia ba được phân thành loại 1 (TN1) và loại 2 (TN2). Bạn có thể làm theo các bước sau để loại trừ triệu chứng đau do bệnh này gây ra.[1]
Mục lục
Các bước[sửa]
Điều trị đau bằng phương pháp y khoa[sửa]
-
Hỏi
bác
sĩ
về
thuốc
chống
co
giật.
Sử
dụng
thuốc
chống
co
giật
là
một
trong
những
cách
điều
trị
phổ
biến
nhất
với
chứng
đau
dây
thần
kinh
chia
ba.
Bác
sĩ
có
thể
kê
một
hoặc
nhiều
loại
thuốc
chống
co
giật
cho
đến
khi
tìm
ra
loại
thuốc
hiệu
quả
nhất
với
triệu
chứng
của
bạn.[2]
- Thông thường họ kê thuốc chống co giật thay cho thuốc giảm đau truyền thống (như thuốc kháng viêm không steroid) vì chúng không hiệu quả trong việc ngăn chặn tín hiệu điện phát đi từ những tế bào thần kinh là nguyên nhân tạo ra cảm giác đau.[3]
- Carbamazepine là thuốc chống co giật thường được kê đầu tiên.[4]
- Oxcarbazepine tương tự như thuốc carbamazepine về hiệu quả, dễ dung nạp hơn nhưng lại đắt tiền hơn. Gabapentin và lamotrigine thường được dùng cho những bệnh nhân không thể dung nạp carbamazepine.
- Baclofen có thể là thuốc hữu hiệu để dùng chung với thuốc chống co giật, đặc biệt khi bệnh đau dây thần kinh chia ba có liên quan đến chứng đa xơ cứng.
- Thuốc chống co giật sẽ hết hiệu quả sau một thời gian sử dụng vì chúng tích tụ trong máu, lúc đó bác sĩ sẽ kê thuốc chống co giật khác mà cơ thể chưa nhờn.[5]
-
Sử
dụng
thuốc
chống
trầm
cảm
ba
vòng.
Thuốc
chống
trầm
cảm
ba
vòng
thường
được
dùng
để
điều
trị
triệu
chứng
trầm
cảm,
nhưng
nó
cũng
hiệu
quả
với
các
chứng
đau
mãn
tính.[6]
- Thuốc có thể điều trị một số tình trạng đau mãn tính như đau mặt không điển hình, nhưng không hiệu quả với chứng đau dây thần kinh chia ba kinh điển.
- So với liều dùng trị trầm cảm, bác sĩ thường chỉ kê thuốc chống trầm cảm ba vòng với liều thấp hơn để trị đau mãn tính.[7]
- Thuốc chống trầm cảm ba vòng phổ biến để trị đau mãn tính có thành phần amitriptyline và nortriptyline.[6]
-
Tránh
dùng
thuốc
giảm
đau
và
thuốc
nhóm
opioid.
Các
thuốc
này
không
hiệu
quả
trong
điều
trị
chứng
đau
bộc
phát
ở
bệnh
đau
dây
thần
kinh
chia
ba
kinh
điển.[6]
Tuy
nhiên
một
số
bệnh
nhân
mắc
bệnh
TN2
có
phản
ứng
với
thuốc
giảm
đau
và
thuốc
nhóm
opioid.
- Bệnh TN2 có triệu chứng đau liên tục mà những thuốc này sẽ còn làm tình trạng xấu hơn khi tích tụ nhiều trong máu, trong khi bệnh TN1 gây ra nhiều cơn đau lập đi lập lại và không thể chữa trị bằng thuốc giảm đau hay thuốc nhóm opioid.[2]
- Loại thuốc giảm đau và thuốc nhóm opioid mà bác sĩ thường kê là allodynia, levorphanol hay methadone.
-
Thử
dùng
chất
chống
co
thắt
cơ.
Chất
chống
co
thắt
có
tác
dụng
giảm
đau
do
dây
thần
kinh
chia
ba
gây
ra,
đôi
khi
được
sử
dụng
chung
với
thuốc
chống
co
giật.[5]
- Sở dĩ thuốc chống co thắt cơ được dùng để trị bệnh này vì chúng có thể ức chế chuyển động miễn cưỡng của cơ do tế bào thần kinh phát nhầm tín hiệu trong lúc cơn đau bộc phát.
- Thuốc chống co thắt cơ phổ biến bao gồm Pharmaclofen, Prindax và Baclosal, tất cả đều là biệt dược thuộc nhóm baclofen.
-
Hỏi
ý
kiến
bác
sĩ
về
tiêm
Botox.
Bác
sĩ
có
thể
cân
nhắc
tiêm
Botox
nếu
bạn
đã
nhờn
hay
không
phản
ứng
với
thuốc
chống
co
giật,
thuốc
chống
trầm
cảm
ba
vòng
và
thuốc
chống
co
thắt
cơ.[5]
- Botox đã chứng minh tính hiệu quả cao trong điều trị bệnh đau dây thần kinh chia ba, đặc biệt với các ca có cơ giật mạnh.[8]
- Nhiều người có cảm giác không thoải mái khi nghĩ tới việc tiêm Botox vì chất này gợi sự liên tưởng tiêu cực đến cách dùng Botox trong phẫu thuật thẩm mỹ, tuy nhiên bạn không nên xem thường nó vì Botox có thể giảm đau mặt mãn tính hiệu quả sau khi các cách khác không thành công.
- Cân nhắc dùng phương pháp điều trị không chính thống. Các lựa chọn điều trị không chính thống chưa được nghiên cứu đầy đủ để xem là hiệu quả trong điều trị căn bệnh này. Mặc dù vậy đã có nhiều báo cáo cho biết châm cứu và liệu pháp trị liệu bằng dinh dưỡng có thể giảm đau phần nào.[9]
Điều trị đau bằng phẫu thuật[sửa]
-
Tham
khảo
về
phẫu
thuật.
Đau
dây
thần
kinh
chia
ba
là
một
bệnh
tiến
triển
theo
thời
gian.
Dù
thuốc
có
thể
hạn
chế
ảnh
hưởng
của
các
triệu
chứng,
nhưng
những
ca
nặng
có
khả
năng
gây
tổn
thương
vĩnh
viễn
cho
dây
thần
kinh,
dẫn
tới
suy
kiệt
vì
đau
hoặc
tê
liệt
vĩnh
viễn
một
phần
mặt.[10]
Bạn
nên
cân
nhắc
phẫu
thuật
nếu
điều
trị
bằng
thuốc
không
thành
công.
- Bác sĩ sẽ cùng với bạn chọn ra cách phẫu thuật tốt nhất dựa trên sức khoẻ và tiền sử bệnh của bạn. Độ nặng của bệnh, tiền sử về bệnh thần kinh ngoại biên và sức khoẻ tổng quát là các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn phẫu thuật.
- Mục tiêu chung của phẫu thuật là giảm tối thiểu tổn thương cho dây thần kinh chia ba khi bệnh tiến triển theo thời gian, và cải thiện chất lượng cuộc sống khi thuốc không còn trị đau hiệu quả.
-
Phẫu
thuật
ép
bóng.
Mục
đích
ép
bóng
là
để
làm
tổn
thương
nhẹ
các
nhánh
của
dây
thần
kinh
chia
ba
sao
cho
xung
mang
cảm
giác
đau
không
thể
lan
truyền.[11]
- Trong quá trình thực hiện, người ta luồn một ống thông có đầu bóng nhỏ vào lòng chiếc kim lớn đâm qua hộp sọ, tiếp theo họ bơm nước làm bóng phồng lên và ép dây thần kinh này vào hộp sọ.
- Đây là một thủ thuật ngoại trú được thực hiện trong tình trạng gây mê tổng thể, dù đôi khi bạn phải ở lại bệnh viện qua đêm.
- Phẫu thuật ép bóng có thể trị được đau trong hai năm.
- Nhiều bệnh nhân nhận thấy tê cứng mặt tạm thời hay suy yếu cơ nhai sau khi trải qua thủ thuật, nhưng nói chung sẽ không còn đau.[5]
-
Hỏi
ý
kiến
bác
sĩ
về
tiêm
glycerol.
Việc
tiêm
glycerol
được
tiến
hành
khi
bệnh
ảnh
hưởng
đến
nhánh
thứ
ba
và
cũng
là
nhánh
thấp
nhất
của
dây
thần
kinh
chia
ba.[2]
- Thủ thuật ngoại trú này được tiến hành bằng cách đâm cây kim nhỏ qua má vào tới nền sọ, gần vị trí nhánh thứ ba của dây thần kinh.
- Sau khi được tiêm vào, glycerol phá hủy dây thần kinh sinh ba và do đó bạn không còn thấy đau.
- Thủ thuật này có thể trị được đau trong một tới hai năm.
-
Đốt
bằng
sóng
cao
tần.
Đốt
bằng
sóng
cao
tần
là
thủ
thuật
ngoại
trú
nhằm
làm
đông
các
thớ
của
dây
thần
kinh
bằng
một
điện
cực,
khiến
khu
vực
bị
đau
không
còn
cảm
giác.[2]
- Để tiến hành người ta lồng một cây kim với vai trò là điện cực vào dây thần kinh chia ba.
- Sau khi xác định được khu vực có dây thần kinh gây đau, bác sĩ đưa một xung điện nhỏ vào điện cực để phá hủy thớ mô dây thần kinh, làm tê khu vực đó.
- Triệu chứng tái phát sau ba tới bốn năm với khoảng 50% số bệnh nhân.
-
Tìm
hiểu
kỹ
thuật
xạ
phẫu
bằng
dao
gamma.
Kỹ
thuật
này
sử
dụng
hình
ảnh
quan
sát
từ
máy
vi
tính
để
tập
trung
tia
bức
xạ
vào
đúng
dây
thần
kinh
chia
ba.[2]
- Tia bức xạ tạo tổn thương trên dây thần kinh, chặn đứng tín hiệu cảm xúc truyền về não bộ và do đó bạn cảm thấy bớt đau.
- Bệnh nhân có thể về nhà ngay trong ngày hoặc xuất viện một ngày sau đó.
- Đa số bệnh nhân trải qua phẫu thuật bằng dao gamma cho biết không còn đau sau vài tuần hay vài tháng nhưng đau sẽ tái phát trong vòng ba năm.
-
Phẫu
thuật
giải
ép
vi
mạch.
Đây
là
thủ
thuật
xâm
lấn
nhiều
nhất
trong
các
cách
trị
đau
dây
thần
kinh
chia
ba.
Bác
sĩ
mở
một
lỗ
nhỏ
trên
hộp
sọ
phía
sau
tai
rồi
dùng
đèn
nội
soi
để
quan
sát
dây
thần
kinh
này,
họ
sẽ
đặt
một
tấm
đệm
vào
giữa
dây
thần
kinh
và
mạch
máu
đang
chèn
lên
dây
thần
kinh
đó.[11]
- Thời gian hồi phục tùy thuộc vào mỗi người nhưng nói chung bạn sẽ phải nằm lại bệnh viện.
- Đây là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với chứng đau dây thần kinh chia ba. Có khoảng 70-80% số bệnh nhân hết đau hoàn toàn và ngay lập tức sau khi phẫu thuật, và hiệu quả có thể kéo dài từ 10-20 năm trên 60-70% số bệnh nhân.[12]
-
Hiểu
về
thủ
thuật
cắt
dây
thần
kinh.
Phương
pháp
này
yêu
cầu
phải
cắt
bỏ
một
phần
dây
thần
kinh
chia
ba.
Đây
là
thủ
thuật
xâm
lấn
và
chỉ
áp
dụng
cho
những
bệnh
nhân
kháng
lại
với
các
loại
thuốc,
hoặc
những
người
không
thể
trải
qua
cách
phẫu
thuật
khác.[11]
- Người ta thường cắt dây thần kinh khi không thể tìm ra mạch máu nào đang chèn lên dây thần kinh đó trong quá trình thực hiện phương pháp giải ép vi mạch.
- Mục đích phẫu thuật là loại bỏ các phần khác nhau trên nhánh của dây thần kinh chia ba để giải trừ cơn đau.
Lời khuyên[sửa]
- Triệu chứng của bệnh TN1 (đau dây thần kinh chia ba kinh điển) là các cơn đau bộc phát bất ngờ kéo dài từ vài giây cho tới hai phút. Vị trí đau thường ở má hay cằm, hiếm khi xảy ra ở trán.
- Bệnh TN2 (còn gọi là đau dây thần kinh chia ba không điển hình) là trường hợp người bệnh thấy đau liên tục ở mặt. Đau dây thần kinh chia ba không điển hình là một tình trạng hoàn toàn khác mà cơ chế phát sinh bệnh khó hiểu hơn nhiều so với đau dây thần kinh chia ba kinh điển.
- Người mắc bệnh TN1 thường tránh sờ vào mặt để không kích thích co thắt cơ. Trong khi đó bệnh nhân mắc chứng đau mặt không điển hình phải mát xa hay xoa bóp mặt. Đây là sự khác biệt dễ thấy nhất giữa hai tình trạng.
Nguồn và Trích dẫn[sửa]
- ↑ http://www.ninds.nih.gov/disorders/trigeminal_neuralgia/detail_trigeminal_neuralgia.htm
- ↑ 2,0 2,1 2,2 2,3 2,4 http://www.ninds.nih.gov/disorders/trigeminal_neuralgia/detail_trigeminal_neuralgia.htm#290153236
- ↑ http://www.neurosurgery.pitt.edu/centers-excellence/cranial-nerve-program/disorders-treated/trigeminal-neuralgia
- ↑ Zakrzewska JM, Linskey ME. Trigeminal neuralgia. BMJ. 2015 Mar 12;350:h1238
- ↑ 5,0 5,1 5,2 5,3 http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/trigeminal-neuralgia/basics/treatment/con-20043802
- ↑ 6,0 6,1 6,2 http://www.ninds.nih.gov/disorders/trigeminal_neuralgia/detail_trigeminal_neuralgia.htm#29015323
- ↑ http://www.cell.com/trends/pharmacological-sciences/fulltext/S0165-6147%2806%2900129-5
- ↑ http://www.scielo.br/scielo.php?script=sci_arttext&pid=S0004-282X2008000400012
- ↑ http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/trigeminal-neuralgia/basics/alternative-medicine/con-20043802
- ↑ http://www.ninds.nih.gov/disorders/trigeminal_neuralgia/detail_trigeminal_neuralgia.htm#29015323
- ↑ 11,0 11,1 11,2 http://www.ninds.nih.gov/disorders/trigeminal_neuralgia/detail_trigeminal_neuralgia.htm#290153236
- ↑ Zakrzewska JM, Linskey ME. Trigeminal neuralgia. BMJ. 2015 Mar 12;350:h1238.