Cổ học tinh hoa. Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân/202
CÁCH TRỊ DÂN
Tử Sản làm tướng nước Trịnh đã lâu năm, có lòng thương dân, lấy đạo khoan mà trị dân.
Khi Tử Sản ốm nặng gọi Tử Thái Thúc đến bảo rằng:
- Ta chết, tất nhà ngươi làm tướng nước Trịnh. Ngươi phải biết người có đức mới lấy đạo khoan hoà mà phục được dân, còn người thường phải lấy cách uy nghiêm mà trị dân mới được. Này ví như lửa nóng dân trông thấy mà sợ, cho nên chết vì lửa ít; nước mát dân khinh mà nhờn, cho nên chết vì nước nhiều. Thế mới biết khoan hoà là khó.
Mấy tháng sau, Tử Sản mất, Tử Thái Thúc thay làm tướng, không nỡ dùng nghiêm mãnh, cứ lấy đạo khoan hoà mà trị dân.
Không được bao lâu, trong nước sinh ra nhiều trộm cướp thường núp sau ở các đồng lầy mà lấy của giết người nhũng nhiễu lương dân.
Tử Thái Thúc hối lại nói rằng:
“Giá ta biết sớm theo nhời Tử Sản thì đâu đến thế này!”
Rồi liền đem quân đi đánh bắt bọn cướp ở đồng lầy mà giết hết. Từ đấy nước Trịnh mới bớt trộm cướp.
Đức Khổng Tử nói rằng: "Được lắm! chính khoan, thì dân nhờn, dân nhờn, thì lại phải dùng mãnh; mãnh, thì dân tàn, tàn, lại phải dùng khoan; khoan giúp cho mãnh, mãnh giúp cho khoan, có thế thì chính mới hoà được".
TẢ KHƯU MINH
GIẢI NGHĨA[sửa]
- Tử Sản: tên tự là Công Tôn Kiều làm quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu.
- Tướng: quan đứng đầu cả bách quan giúp vua làm chính.
- Khoan: thong thả không cấp bách
- Đồng lầy: nói đồng đất lõng võng có nước và cây cối mọc rậm rạp. Ta còn gọi là bãi mà chữ là Trạch. Đồng lầy nói trong bài đây có tên riêng gọi là Hoàn Bồ.
- Lương dân: dân lành, lương thiện.
- Mãnh: dữ dội nghiêm khắc.
- Tả Khưu Minh. - Quan Thái sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố thần.
NHỜI BÀN[sửa]
Tử Sản vốn là một người học rộng chính trị giỏi, làm tướng nước Trịnh hơn 40 năm, đối với trong, thì dân bình trị, đối với ngoài, thì các nước e nể, ông là một bực quân tử có bốn điều hay; đối với mình thì tự trọng (cung), đối với người mình thờ thì kính, nuôi dân thì có ơn huệ, khiến dân thì có nghĩa.
Câu ông dặn Tử Thái Thúc đây thực có ý lắm. Mãnh mà khiến cho dân sợ dễ bao nhiêu, thì khoan mà cũng khiến cho dân sợ khó bấy nhiêu. Tuy cũng gọi là sợ, nhưng cái sợ trước không có giá, vì sợ bất đắc dĩ, sợ miễn cưỡng, sợ bề ngoài mà khinh trong bụng, cái sợ sau mới là cái sợ quí, vừa sợ, vừa yêu, sợ mà kính phục, sợ như vui lòng mà sợ vậy. Nhưng muốn được cái sợ sau, tất cái đức của mình phải to làm sao mới cảm hoá được nhân tâm đến bực ấy.
Còn thường thường, phép trị dân không thể cứ khoan mãi được, vì khoan thì dân nhờn. Lại cũng không thể cứ mãnh mãi được, vì mãnh thì dân oán. Dân oán hay dân nhờn cũng đều có trở ngại đến việc mình làm cả. Cho nên phải có khoan, lại phải có mãnh đắp đổi đỡ đần cho nhau thì mới được. Bốn chữ “Khoan mãnh tương tế” thực đáng làm cái phương châm cho cả những người cầm quyền trị dân vậy.