Leptocorisa acuta (Bọ xít hôi hại lúa)
Bọ xít hôi hại lúa, có tên khoa học là Leptocorisa acuta Thunberg, là một loài côn trùng thuộc họ Alydidae (Bọ Xít Mép), bộ Hemiptera (Cánh Nửa Cứng).
Mục lục
Phân bố[sửa]
Bọ xít hôi xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trồng lúa trên thế giới như Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Burma, Indonesia, Cambodia, Lào, Malaysia, Nepal, Pakistan, Philippines, Thái Lan, miền nam Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên và Việt Nam.
Ký chủ[sửa]
Bọ xít hôi có rất nhiều ký chủ phụ thuộc 2 họ Hòa Thảo và họ Cỏ Cú, đặc biệt thường gặp trên cỏ lồng vực, lúa hoang, bắp, kê, lúa miến, quan trọng nhất là lúa và cỏ Echinochloa.
Đặc điểm hình thái và sinh học[sửa]
Thành trùng có màu xanh hơi pha nâu ở trên lưng và màu vàng nâu ở mặt bụng, dài từ 14-18 mm, mình thon dài, chân và râu đầu rất dài, râu đầu có 4 đốt. Đầu dài, 2 phiến cạnh của đầu nhô ra trước như dạng ngón tay. Bọ xít đực và cái phân biệt dễ dàng nhờ con cái ở cuối đốt bụng thứ 8 (thấy thực tế là đốt bụng thứ bảy) chẻ đôi thành 2 phần, trong khi ở con đực thì cuối bụng tròn. Đời sống của thành trùng có thể đến 2-3 tháng, trong thời gian này một thành trùng cái có khả năng đẻ từ 250-300 trứng trong vòng khoảng 8 tuần. Trứng được đẻ thành nhiều hàng trên phiến lá, ở cả hai mặt, hoặc bẹ lá, mỗi ổ có từ 10-30 trứng.
Trứng hình bầu dục, hơi dẹp, dài từ 1,2-1,4 mm, mới đẻ màu trắng đục, sắp nở màu nâu đen bóng. Thời gian ủ trứng là 5-8 ngày. Trứng được đẻ thành từng hàng song song trên phiến lá từ 10-20 trứng, dọc gân chính, ở mặt trên lá.
Ấu trùng có 5 tuổi, màu xanh lá cây lợt, râu màu nâu đậm, mới nở dài khoảng 2 mm, tuổi lớn nhất dài từ 12-14 mm. Thời gian phát triển của giai đoạn ấu trùng từ 15-22 ngày.
Vòng đời bọ xít hôi từ 31-40 ngày.
Tập quán sinh sống và cách gây hại[sửa]
Khi trên ruộng chưa có lúa, thành trùng có thể sống trên cỏ dại và thường di chuyển vào ruộng khi lúa trổ. Thành trùng hoạt động mạnh vào sáng sớm và chiều tối và không bị thu hút nhiều bởi ánh sáng đèn.
Trứng nở vào buổi sáng, sau khi nở ấu trùng tập trung quanh ổ trứng, 2-3 giờ sau phân tán lên bông hay lá lúa non để chích hút nhựa. Khi bị động, cả ấu trùng và thành trùng đều tiết ra mùi hôi; ấu trùng buông mình rơi xuống đất trong khi thành trùng bay lên rất nhanh. Ấu trùng và thành trùng thường tập trung trên bông lúa, chích hút hạt lúa đang ngậm sữa bằng cách dùng vòi chọc vào giữa 2 vỏ trấu, chích hút hạt lúa, làm hạt bị lép hoặc lửng, rất dễ bể khi xay.
Vết chích hút do bọ xít để lại là một đốm nâu trên hạt lúa do nấm bệnh tấn công. Khi cây lúa còn non, bọ xít có thể chích hút trên lá và đọt non
Các yếu tố ảnh hưởng đến mật số[sửa]
Thời tiết[sửa]
- Nhiệt độ từ 27-29 °C và ẩm độ từ 80-85 % thích hợp cho bọ xít. Thường trời có nhiều mây, âm u, ẩm, ít mưa, ít gió thích hợp cho bọ xít phát triển; vì vậy ở đồng bằng sông Cửu Long bọ xít gia tăng mật số vào các tháng 8, 9 trong vụ hè thu, lúc lúa từ trổ đến vào chắc và tiếp tục gia tăng đến cuối vụ đông xuân. Lúc này ruộng không còn lúa, bọ xít di chuyển sang các ký chủ phụ.
- Thức ăn: giống lúa có râu được ghi nhận là không kháng bọ xít.
- Thiên địch: Các loài ong thuộc họ Scelionidae thường ký sinh trứng bọ xít. Các loài nhện ăn thịt ấu và thành trùng. Nấm Beauveria bassiana gây hại cả ấu trùng lẫn thành trùng.
Biện pháp phòng trị[sửa]
Vệ sinh đồng ruộng, diệt cỏ, nhất là cỏ lồng vực vì hạt cỏ có sẵn trong ruộng lúa và trổ trước lúa nên bọ xít thường bay tới đẻ trứng trên cỏ. Dùng thuốc có mùi hôi xua đuổi thành trùng ra khỏi ruộng lúa.
Ghi chú[sửa]
Nội dung về sâu hại thực vật trình bày ở trên được tham khảo từ Giáo trình Côn trùng Nông nghiệp, phần B: Côn trùng hại cây trồng chính ở đồng bằng sông Cửu Long (tác giả: Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, Bộ môn Bảo vệ Thực vật, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, Đại học Cần Thơ, năm xuất bản: 2003).[1] Từ khi lên trang, có thể nội dung đã được cập nhật bởi cộng đồng BVTVwiki.