Nôm na là cha mách qué
Nôm
na
là
cha
mách
qué
.
Trong thành ngữ tiếng Việt có câu : “ Nôm na là cha mách qué ” xưa nay nhiều người biết , nhiều người dùng ...nhưng ý nghĩa thực của câu này là gì ? chưa thấy có ai giải thích cặn kẽ . Riêng với người viết thì câu ‘Nôm na là cha mách qué’ có nghĩa rất đặc biệt ; là chiếc chìa khoá giúp bản thân đi vào Dịch học .
Xin giải nghĩa :
- Nôm là biến âm của ‘Nam’ chỉ nước Việt người Việt , từ Nôm trong câu này chỉ chữ Nôm , từ Nôm hay âm Nôm nói chung ý trong câu là chỉ tiếng nói của người Việt nam .
Ngày nay thường hiểu từ Nam là chỉ riêng người Việt nam ; thực ra đây là từ chỉ chung cả khối ‘Bách Việt’ ,thời Nguyên Mông đại để thì người phía bắc sông Dương tử gọi là người Hán , phía nam Dương tử gọi là người Nam .
- Na tức ‘na ná’ nghĩa là gần giống với .
- Cha đồng nghĩa với thày cũng có thể hiểu là thày dạy học , người chỉ dẫn .
- Mách là chỉ bảo , chỉ dẫn nghĩa như trong mách bảo , mách nước .v.v.
- Qué ở đây biến âm của từ Quái trong Hoa ngữ hay quẻ trong tiếng Việt chỉ 8 quẻ căn bản của Dịch học , quẻ đơn là Kiền Đoài ly Chấn tốn khảm Cấn Khôn .
Tóm lại nghĩa của câu ‘Nôm na là cha mách qúe’ là :
Na ná hay gần giống với từ Nôm là thày chỉ bảo về ý nghĩa các quẻ Dịch .
Có thể viện dẫn :
- Quẻ Kiền hay Càn chỉ sức mạnh hay sự to lớn có gốc từ tiếng Việt là ‘cồng - kềnh’ hay ‘ kềnh càng ’ .
- quẻ Đoài , đoài là biến âm của điều hay đào tức màu đỏ .
- quẻ ly biến âm của quẻ ‘lửa’ tượng trưng cho sức nóng , ánh sáng và mặt trời .
- quẻ Chấn , chấn là biến âm của ‘sấm’ Hoa ngữ là Lôi . - quẻ Tốn hay Toán tức tính – toán trong tiếng Việt chữ cổ còn gọi là tán . - quẻ Khảm còn gọi là Cống , thực ra là ‘cóng ’ tiếng Việt thường dùng từ kép ‘lạnh cóng ’.
- quẻ Cấn còn gọi là căn nghĩa tiếng Việt là ‘cán’ là cái để nắm lấy mà điều khiển như cán dao , cán cuốc .v.v.
- quẻ Khôn chỉ sự khôn ngoan nơi con người , chỉ khả năng nhận xét của não bộ tức khả năng nhìn nhận và phán đoán sự việc .
Xem sét kỹ thì : Không chỉ riêng Bát quái mà Thập can cũng do ‘Nôm na’ mà ra như :
- Giáp – chắc trong chắc chắn .
- Ất – óp như trong óp ép .
- Bính – bấn , bấn loạn .
- Đinh – đanh cứng như đanh .
- Mậu – mẹ .
- Kỷ – cả .
- Canh – canh ( nước ) , cánh ,cạnh , cành , chỉ trục ngang .
- Tân – tâng , tưng , tung lên chỉ trục đứng .
- Nhâm – nhũn , nhung ( mềm như nhung )
- Qúy hay Khang – khăng , khăng khăng không đổi .
Thực kỳ lạ ... tên các thành tố của Dịch học như Thập can , Bát quái .v.v không mang 1 ý nghĩa gì trong Hoa ngữ , nó thuần là các tên để gọi mà thôi .... ngược lại khi ‘Nôm na ’ thì ý nghĩa Dịch lý lại nằm ngay chính trong tên gọi của nó . ( xin đọc Dịch học họ HÙNG ),Thậm chí những từ khoá trong nguyên lý cơ bản “sinh sinh chi vị dịch” cũng có gốc từ ‘Nôm na’ mà ra : “thái cực sinh lưỡng nghi , lưỡng nghi sinh tứ tượng , tứ tượng sinh bát quái ...” ; cực nghi tượng quái v.v. đều là những ‘đặc từ’ chỉ dùng trong dịch học phải có công ‘tu luyện’ mới thấu đáo ...ngược lại khi dùng ‘nôm na pháp’: “..1 cục hay cuộc sinh 2 ngôi , 2 ngôi sinh 4 tạng hay dạng , 4 tạng sinh 8 quả” ...rồi cả 3 toà 5 hình 9 chỗ thì ra tất cả là những danh từ thông thường dùng trong cuộc sống hàng ngày người ‘bình dân’ ai gặp cũng hiểu ngay ...chẳng phải là ‘đặc ngữ đặc từ’ chi cả , có thể nói : khi ‘Nôm na’ thì Dịch học rất gần gũi đời sống thường nhật của con người trái hẳn với Dịch học siêu đẳng của Hoa ngữ ...nói toàn chuyện trên mây như chỉ dành cho các bậc thánh triết mà trên cõi đời này hỏi có được mấy vị ? ngược lại bọn buôn thần bán thánh kiếm sống dựa dẫm vào thứ Dịch học ‘siêu đẳng ’ này thì đông tới tám tạ thiên khênh ....
Tóm lại dựa vào yếu tố ngôn ngữ có thể khẳng định :
Kinh Dịch chứa đựng những hiểu biết về sự vận động và biến đổi của mọi vật trong Không và Thời gian là thành tựu trí tuệ của người NAM hay Bách Việt mà chi duy nhất còn lại đại diện cho cả dòng giống là Lạc Việt tức người Việt nam ngày nay .