Ngoại ngữ chuyên ngành kỹ thuật - công nghệ với việc đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ thập kỉ đầu thế kỉ XXI - Cơ sở lí luận và thực tiễn

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Dẫn nhập[sửa]

Cùng với toàn thế giới, Việt Nam đã bước sang thế kỉ XXI với nhiều thử thách và vận hội mới. Đất nước ta đang ở giai đoạn Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Thế giới đang bước vào thời kì kinh tế tri thức. Xã hội mới phồn vinh ở thế kỉ XXI phải là một xã hội của tri thức và dựa và tri thức, vào tư duy sáng tạo của con người. Để có thể vươn lên hội nhập vào cộng đồng thế giới, chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến, đồng thời cần biết áp dụng những kinh nghiệm đó một cách sáng tạo, tìm ra được phương thức phát triển phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

Quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo cần có những đổi mới cơ bản và mạnh mẽ nhằm cung cấp cho đất nước những con người lao động có chuyên môn và hiệu quả cao trong hoàn cảnh mới. Việc dạy và học ngoại ngữ ở phổ thông cũng không nằm ngoài mục tiêu trên. Do đó, trong đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ của thập kỉ đầu thế kỉ XXI vấn đề cập nhật các kiến thức cho sự phát triển tri thức về khoa học kĩ thuật và công nghệ là cần thiết.

Sự nghiệp giáo dục và đào tạo ngày nay ở Việt Nam và các nước trên thế giới không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt cho học sinh các kiến thức, kĩ năng của các thế hệ loài người, mà còn chú ý đến việc bồi dưỡng cho họ năng lực sáng tạo ra tri thức mới, cách giải quyết vấn đề mới phù hợp với hoàn cảnh của mỗi dân tộc, mỗi đất nước.

Trong thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, khi tri thức xã hội thay đổi nhanh chóng theo nền kinh tế tri thức thì người lao động cũng phải biết tự đổi mới kiến thức và năng lực của mình cho phù hợp với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Người lao động phải có khả năng tự định hướng và tự vươn lên để thích ứng với đòi hỏi mới của xã hội. Giáo viên phổ thông ngoại ngữ - loại hình người lao động trong lĩnh vực đặc thù của xã hội - ngoài việc phải tuân thủ các nguyên tắc của người lao động tạo ra sản phẩm - con người có trình độ bậc phổ thông - cho xã hội, còn phải làm nhiệm vụ "cầu nối" kiến thức và văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới thông qua việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học theo lĩnh vực của người giáo viên - người lao động.

Một điều dễ dàng nhận thấy khi chúng ta đã bước qua ngưỡng cửa đầu tiên của thế kỉ XXI là học sinh các trường phổ thông ở Việt Nam từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi đến miền ngược được tiếp xúc hàng ngày với thông tin cập nhật, với khoa học kĩ thuật và công nghệ đang biến đổi rất nhanh chóng cùng với sự hiện diện của các ngoại ngữ mà chủ yếu là tiếng Anh với hàng loạt thuật ngữ khoa học, với các cách diễn đạt rất đa dạng trong các lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công nghệ theo phong cách khoa học.

Từ đây, chúng ta thấy rằng người giáo viên phổ thông ngoại ngữ của thập kỉ đầu thế kỉ XXI mang trọng trách rất to lớn.

Dạy và học ngoại ngữ thông qua hoạt động của học sinh trên cơ sở thực tế xã hội[sửa]

Để thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo phổ thông nói chung, phổ thông ngoại ngữ nói riêng, theo chúng tôi, phải giải quyết đồng bộ rất nhiều mặt có liên quan đến giáo dục.

Về phương diện đạo tạo, phương pháp giáo dục, công nghệ dạy và học, nghị quyết TW2 của Đảng nêu rõ : "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học".

Thành tựu to lớn và quan trọng nhất của tâm lí học thế kỉ XX được sử dụng làm cơ sở để đổi mới phương pháp dạy và học là lí thuyết hoạt động của L.X.Vưgôtski (Nga) và được Lêônchiev kế thừa và phát triển. Theo lí thuyết này, bằng hoạt động và thông qua hoạt động, con người tự sinh thành ra mình, kiến tạo và phát triển nhân cách của mình. Như vậy, mỗi người đều là một chủ thể có ý thức tự giác trong mọi hoạt động của chính người đó. Bằng hoạt động và thông qua hoạt động của bản thân, con người chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực trí tuệ cũng như quan điểm về hành vi và đạo đức.

Dạy và học ngoại ngữ là một loại hoạt động đặc thù của con người. Loại hình hoạt động này có cấu trúc giống như hoạt động lao động sản xuất nói chung, nghĩa là cũng bao gồm các thành tố có quan hệ và tác động đến nhau: động cơ, mục đích, điều kiện và hoạt động, hành động, thao tác. Chúng ta thấy rằng động cơ quy định sự hình thành và diễn biến của hoạt động. Như vậy, muốn thỏa mãn động cơ đề ra, phải thực hiện lần lượt các hoạt động cụ thể để đạt được mục đích cụ thể. Cuối cùng, mỗi hoạt động được thực hiện bằng nhiều thao tác sắp xếp theo một trình tự xác định và ứng với mỗi thao tác phải sử dụng các phương tiện, công cụ thích hợp. Bất kì hoạt động nào cũng đều có đối tượng phù hợp. Thông thường, nếu hoạt động có đối tượng là một khách thể thì nó có xu hướng làm biến đổi khách thể. Hoạt động dạy và học là loại hình hoạt động đặc thù nên nó làm cho chính chủ thể (người dạy và người học) biến đổi và phát triển.

Trong quá trình dạy và học, kết quả của việc học tập phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động học của học sinh. Vì vậy, nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức, hướng dẫn hoạt động của học sinh để thông qua hoạt động học của mình, học sinh có thể lĩnh hội được nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển các phẩm chất tâm lí, hình thành nhân cách của họ.

Muốn tổ chức, hướng dẫn tốt hoạt động học tập ngoại ngữ của học sinh phổ thông mà thực chất là hoạt động nhận thức ngoại ngữ và các phương pháp thể hiện sáng tạo ngôn ngữ được học, người giáo viên cần nắm được quy luật chung của quá trình nhận thức một khoa học, cơ chế sinh lí của hoạt động ngôn ngữ, động cơ và mục đích của việc học ngoại ngữ, các kĩ xảo và kĩ năng giao tiếp. Đối với giáo viên dạy ngoại ngữ ở phổ thông, trí nhớ ngoại ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng. Quá trình duy trì và phát triển trí nhớ, tư duy ngôn ngữ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ.

Môi trường của học sinh phổ thông hiện nay là môi trường sống động của nền kinh tế tri thức với động lực là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ, với giao lưu hội nhập quốc tế nên người giáo viên dạy ngoại ngữ phổ thông cũng cần nắm được kiến thức về khoa học kĩ thuật hiện đại bằng tiếng Việt và cả bằng ngoại ngữ được giảng dạy tại trường.

Trong thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, việc lĩnh hội và vận dụng các kiến thức về ngoại ngữ chuyên ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ của giáo viên phổ thông ngoại ngữ có thể ở mức độ các thuật ngữ khoa học cơ bản, khoa học kĩ thuật, công nghệ của một số lĩnh vực phổ biến như điện tử viễn thông, công nghệ thông tin, công nghệ hóa học, công nghệ môi trường, dệt may và các phương pháp trình bày nội dung thông tin của các ngành kỹ thuật - công nghệ trên.

Với kiến thức về khoa học kĩ thuật và công nghệ của giáo viên, chúng tôi hy vọng chắc chắn rằng các bài học ngoại ngữ (chính khóa và ngoại khóa) của học sinh sẽ hấp dẫn hơn, và hơn thế nữa, hoạt động lĩnh hội kiến thức khoa học kĩ thuật và công nghệ bằng ngoại ngữ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người giáo viên hỗ trợ các học sinh cuối cấp phổ thông trung học có xu hướng lựa chọn ngành nghề và thi vào các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học thuộc khối kĩ thuật và công nghệ. Chúng ta biết rõ rằng số thí sinh lựa chọn và thi vào khối ngành kỹ thuật hàng năm không phải là ít, chỉ tính riêng trường Đại học Bách Khoa Hà Nội hàng năm trung bình có từ 27,000 đến 33,000 thí sinh dự thi.

Cuối cùng, người giáo viên dạy phổ thông ngoại ngữ cần nắm và đưa ra được các biện pháp để động viên, khuyến khích học sinh tích cực, tự lực thực hiện hành động học của mình, đặc biệt trong môi trường xã hội không có giao tiếp hàng ngày bằng ngôn ngữ được học, cũng như đánh giá kết quả hành động dạy và học ngoại ngữ ở phổ thông hiện nay.

Vấn đề nhận thức ngoại ngữ chuyên ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ đối với giáo viên phổ thông ngoại ngữ:[sửa]

Để việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ trong quá trình Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa đạt hiệu quả, chúng tôi đặt mục tiêu trong khuôn khổ bài báo này đề cập đến một số vấn đề về cơ sở lí luận và thực tiễn của việc nhận thức ngoại ngữ chuyên ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ đối với giáo viên phổ thông ngoại ngữ hiện nay.

1. Quy luật chung của quá trình nhận thức:

Quá trình nhận thức một ngôn ngữ là quá trình nhận thức khách quan. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nêu rõ quy luật chung nhất của hoạt động nhận thức là: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lí, của sự nhận thức hiện thực khách quan".

Theo tâm lí học hiện đại thì trong việc nhận thức thế giới, con người có thể đạt được các mức độ nhận thức khác nhau, ở mức độ thấp ban đầu, con người nhận thức theo cảm tính, ở mức độ cao, nhận thức của con người là nhận thức lí tính (tư duy), tức là trong tư duy của con người phản ánh thuộc tính bản chất bên trong của sự vật, các mối quan hệ có tính quy luật. Ở đây, con người thực hiện các thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa để rút ra tính chất chủ yếu của đối tượng nhận thức và xây dựng thành khái niệm. Mỗi khái niệm được diễn đạt bằng một từ ngữ. Ngoài ra, sụ nhận thức còn thực hiện các phép suy luận để rút ra những kết luận mới, dự đoán những hiện tượng mới trong thực tiễn. Do vậy, tư duy luôn có tính sáng tạo, nếu được rèn luyện và phát triển sẽ giúp con người cải tạo thế giới khách quan, phục vụ lợi ích của con người.

Trên cơ sở quy luật chung của nhận thức, đối với mỗi ngành khoa học, quá trình nhận thức đều có các nét đặc thù, phụ thuộc vào đối tượng nhận thức cụ thể. Mỗi khoa học chỉ trở thành một khoa học thực sự khi nó có một hệ thống khái niệm rõ ràng và một phương pháp nghiên cứu có hiệu quả. Từ đây, chúng ta thấy rằng việc nhận thức bản chất của ngôn ngữ và dạy - học ngoại ngữ như một khoa học đặt cơ sở vững chắc cho lí luận, làm nền tảng cho phương hướng giải quyết toàn bộ các vấn đề về dạy và học ngoại ngữ trong trường phổ thông hiện nay.

2. Hoạt động nhận thức trong đào tạo kiến thức chuyên ngành cho giáo viên phổ thông ngoại ngữ.

a. Nét khu biệt giữa hoạt động nhận thức của nhà khoa học và của giáo viên phổ thông ngoại ngữ.

Việc nghiên cứu hoặc học tập một môn khoa học nhất định sẽ đạt hiệu quả nếu sử dụng chính phương pháp luận của khoa học đó. Ví dụ, có thể tổ chức quá trình học tập của giáo sinh phổ thông ngoại ngữ tương tự như quá trình nghiên cứu của các nhà khoa học và công nghệ. Trên thực tế, giữa hai quá trình này có các nét khu biệt. Để thành công trong việc cập nhật các kiến thức khoa học kĩ thuật và công nghệ cho giáo sinh phổ thông ngoại ngữ, theo quan điểm của chúng tôi, cần xử lí các vấn đề có liên quan tới đặc thù nghề nghiệp và điều kiện làm việc của họ.

• Nhà khoa học phải tìm ra cái mới, giải pháp mới mà trước đây loài người chưa biết, còn giáo sinh ngoại ngữ cần tìm cho bản thân các kiến thức mới về ngoại ngữ và phương pháp học tập, làm việc hiệu quả, chủ yếu là từ người hướng dẫn học tập. Như vậy, việc khám phá của giáo sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức và các phương pháp là cho chính bản thân mình. Ở đây, quan trọng là cung cấp cho giáo sinh các kiến thức về khoa học chuyên ngành và phương pháp nghiên cứu để họ có thể tự thực hiện hoạt động nhận thức trong các lĩnh vực chuyên môn phục vụ hoạt động dạy - học trên thực tiễn sau này.

• Về thời gian, nhà khoa học có thể để nhiều tháng, năm, thậm chí cả cuộc đời mình để khám phá một định luật, xây dựng một thuyết nào đó. Giáo sinh chỉ có một lượng thời gian nhất định để thực hiện nhiệm vụ học tập chính khóa và ngoại khóa. Thông thường, giáo sinh phổ thông ngoại ngữ chưa xác định cho công việc của bản thân trên cơ sở thời gian như một nhà khoa học hoặc chuẩn bị bước vào khoa học. Do vậy, chúng tôi cho rằng, để thế kỉ XXI thực sự là thế kỉ của tri thức, trong thập kỉ đầu này nên đào tạo cho giáo sinh phổ thông ngoại ngữ - ngành của khoa học xã hội và nhân văn - kiến thức về khoa học thời gian, các phương pháp làm việc khoa học được định vị theo trục thời gian.

• Về phương tiện, nhà khoa học có thiết bị, máy móc tinh vi. Giáo sinh trong điều kiện tài chính hạn hẹp (trừ số ít do được chu cấp) chỉ có các phương tiện học tập đơn giản. Do đó, trong quá trình đào tạo, chúng tôi nghĩ rằng nên cập nhật cho giáo sinh kiến thức sử dụng các phương tiện phục vụ cho giảng dạy ngoại ngữ sau khi ra trường, không phải ở trình độ cơ bản như hiện nay, mà ở cấp độ cao hơn. Riêng đối với công nghệ thông tin, nên đào tạo cho giáo sinh một số phương pháp lập trình nhắm phục vụ tốt cho giảng dạy ngoại ngữ ở phổ thông.

• Yếu tố hết sức quan trọng cần lưu ý: hoạt động khoa học là hoạt động sáng tạo. Nhà khoa học thực hiện bước nhảy vọt trong quá trình nhận thức tự nhiên. Trong hoạt động khoa học của mình, nhà khoa học phải khám phá ra những gì mà trước đó loài người chưa tìm ra; phải nhận ra điều mà trước đó nhân loại chưa nhận thấy. Đây là thực chất của hoạt động sáng tạo. Đối với giáo sinh ngoại ngữ, hoạt động sáng tạo là hết sức cần thiết, đặc biệt là trong hoạt động giao tiếp và dịch thuật. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu trên ghế trường đại học, chúng ta cần giúp các em làm quen với cách suy nghĩ khoa học (mà ở phổ thông chưa được đào tạo đầy đủ), tạo ra những yếu tố tiên quyết của hoạt động sáng tạo; cần đặc biệt quan tâm đến việc luyện tập cho giáo sinh vượt qua những khó khăn để đạt được mục đích trong hoạt động khoa học. Chúng ta có thể vận dụng ở đây lí thuyết về "vùng phát triển gần" của Vưgôtski. Theo Vưgôtski, "vùng phát triển gần" là khoảng cách giữa trình độ hiện tại của người học và trình độ phát triển cao hơn, cần vươn tới. Nếu có sự hướng dẫn cụ thể để người học thu hẹp khoảng cách này thì đến một thời điểm nhất định người học sẽ tự vượt qua khoảng trống đó để đạt trình độ cần vươn tới.

Như vậy, để giáo sinh phổ thông ngoại ngữ có thể cập nhật kiến thức của mình vào quá trình dạy và học ngoại ngữ ở thời đại công nghiệp phát triển của thế kỉ XXI, chúng ta cần chuẩn bị cho họ các điều kiện cần thiết để thực hiện thành công hoạt động học tập và nghiên cứu sáng tạo.

b. Phương thức giải quyết vấn đề đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ từ góc độ của khoa học kĩ thuật và công nghệ.

Chúng ta biết rằng hoạt động nhận thức của con người chỉ thực sự bắt đầu khi gặp phải mâu thuẫn giữa trình độ đang có và nhiệm vụ cần giải quyết mà các kiến thức, kĩ năng đang có là chưa đủ để giải quyết vấn đề. Để khắc phục mâu thuẫn, con người phải xây dựng kiến thức mới, phương pháp mới, kĩ năng mới. Trên thực tế, dạy và học nói chung, dạy và học ngoại ngữ nói riêng là hoạt động giải quyết vấn đề nhận thức của người dạy và người học. Quá trình dạy và học ngoại ngữ là quá trình liên tục giải quyết các vấn đề về dạy và học các môn học của chương trình đào tạo cao đẳng, đại học và sau đại học về ngoại ngữ.

Để việc đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ có kiến thức phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và thời đại - kiến thức về khoa học kĩ thuật và công nghệ - đạt hiệu quả, trong phần này, báo cáo đề cập đến mối liên hệ giữa tiến trình giải quyết vấn đề trong khoa học, trong đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ và các phương thức giải quyết vấn đề trong quá trình dạy và học mà giáo sinh cần nắm vững.

b.1. Tiến trình giải quyết vấn đề trong khoa học bao gồm các bước chủ yếu sau:

• Xác định nội dung, yêu cầu và điều kiện của vấn đề cần giải quyết;

• Tổng quan các phương pháp giải quyết vấn đề đặt ra (nếu có) và điểm lại những vấn đề tương tự đang tồn tại;

• Nếu vấn đề nêu trên đã có giải pháp thì liệt kê các giải pháp đã có và lựa chọn một giải pháp thích hợp với vấn đề được nêu;

• Nếu chưa có, phải đề xuất giải pháp mới hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng kiến thức và phương tiện mới để giải quyết vấn đề đã nêu;

• Thử nghiệm vào thực tế để đánh giá hiệu quả, bổ sung và hoàn thiện kết quả được công bố.

b.2. Đặc điểm giải quyết vấn đề của quá trình đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ:

Chúng ta có thể hình dung mối quan hệ giữa tiến trình giải quyết vấn đề trong khoa học và trong quá trình đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ được thể hiện ở các điểm sau:

• Về động cơ, nhu cầu: Điểm giống nhau là vấn đề cần giải quyết đã tự xác định mục đích, nhu cầu. Tuy nhiên, sự khác nhau là ở chỗ, nhà khoa học tự nguyện đem hết sức mình để giải quyết bằng được vấn đề đặt ra, còn giáo sinh chưa ở mức độ có ý thức tập trung cao độ và đem hết sức mình để giải quyết vấn đề học tập của bản thân;

• Về năng lực giải quyết vấn đề: Khi chấp nhận giải quyết vấn đề, người giải quyết vấn đề đã có một trình độ kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo nhất định. Với cùng lượng thời gian, vấn đề được giải quyết ở mức độ và cấp độ khác nhau;

• Về điều kiện làm việc: Nhà khoa học có trong tay phải tạo ra các điều kiện và cơ sở vật chất phù hợp để giải quyết vấn đề. Giáo sinh ngoại ngữ chưa đủ điều kiện hoặc chỉ có thể đạt được các điều kiện ở mức độ thấp như sách giáo khoa, đài, băng v.v.

Như vậy, ngoại ngữ chuyên ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ có thể thâm nhập được vào môi trường đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ nếu người học được cập nhật các kiến thức về hoạt động nhận thức thuộc lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công nghệ.

b.3. Các phương thức giải quyết vấn đề cơ bản:

• Phương thức giải quyết vấn đề theo kiến thức đã biết (bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh). Nếu áp dụng giải quyết vấn đề theo phương thức này thì việc tiếp nhận ngoại ngữ chuyên ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ của người học sẽ đạt kết quả khi:

 - sử dụng ngôn ngữ kĩ thuật để giải quyết các bài học có liên quan đến khoa học kĩ thuật và công nghệ;

 - dịch thuật các văn bản khoa học kĩ thuật và công nghệ;

 - tiếp nhận các thuật ngữ kĩ thuật;

 - định hướng nghiên cứu khoa học bằng ngôn ngữ phong cách khoa học.

• Phương thức nghiên cứu, sáng tạo từng phần: Phương thức này được sử dụng khi nghiên cứu tài liệu mới, vấn đề mới. Ở đây, trực giác đóng vai trò quan trọng. Vấn đề đặt ra là giáo sinh cần được rèn luyện trực giác khoa học để dự đoán một câu trả lời, một giải pháp cho vấn đề đặt ra rồi tìm cách kiểm tra tính đúng đắn của dự đoán đó bằng thực nghiệm. Phương thức này khả quan khi được thực hiện để áp dụng các phương pháp sư phạm trong việc dạy ngoại ngữ phổ thông, trong việc xây dựng và dự đoán hệ thống thuật ngữ kĩ thuật v.v.

• Phương thức sáng tạo tổng hợp: Kiến thức khoa học luôn được tiếp nhận và khái quát theo một trật tự (lôgích) nhất định. Sáng tạo tổng hợp trong khoa học giúp giáo viên phổ thông ngoại ngữ có thể dựa vào kiến thức đã có để tổ chức hoạt động nghiên cứu và dạy - học có hiệu quả.

Thay cho lời kết, chúng tôi muốn khẳng định rằng việc đào tạo giáo viên phổ thông ngoại ngữ của thập kỉ đầu thế kỉ XXI sẽ mang lại hiệu quả nếu được định hướng theo tiến trình phát triển của một xã hội công nghiệp hiện đại và xu thế hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Tài liệu tham khảo[sửa]

1. A.A.Leontiev. Ngôn ngữ như một hiện tượng xã hội. Viện Hàn lâm khoa học Nga, 1976.

2. Bùi Hiền. Phương pháp hiện đại dạy - học ngoại ngữ. Nxb. ĐHQG Hà Nội, 1999.

3. S.Sakovski. Xã hội hóa giao tiếp ngôn ngữ và các vấn đề về giảng dạy tiếng nước ngoài, Moscow, 1987.

4. Đào Hồng Thu. Dạy và học ngoại ngữ ở môi trường không chuyên ngữ. T/c khoa học và công nghệ 4 trường đại học, số 12 tháng 9/1996.

5. Đào Hồng Thu. Về vấn đề "Dạy học ngoại ngữ ở trường Đại học Bách Khoa Hà Nội ". T/c khoa học và công nghệ 4 trường đại học, số 14 tháng 4/1997.

Bản quyền[sửa]

Đào Hồng Thu

Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia "Đào tạo giáo viên ngoại ngữ phổ thông cho thập kỉ đầu thế kỉ XXI" tháng 2/2001

Liên kết đến đây