Chủ đề nóng: Phương pháp kỷ luật tích cực - Cổ học tinh hoa - Những thói hư tật xấu của người Việt - Công lý: Việc đúng nên làm - Giáo án Điện tử - Sách giáo khoa - Học tiếng Anh - Bài giảng trực tuyến - Món ăn bài thuốc - Chăm sóc bà bầu - Môi trường - Tiết kiệm điện - Nhi khoa - Ung thư - Tác hại của thuốc lá - Các kỹ thuật dạy học tích cực
- Dạy học phát triển năng lực - Chương trình giáo dục phổ thông
Nhận biết bệnh rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế
Từ VLOS
Mỗi người có một cách làm việc riêng và đôi khi cách của người này bất đồng với cách của người khác. Đa số chúng ta đều có khả năng tìm ra điểm chung và thỏa hiệp để cùng hợp tác trong mối quan hệ với nhau, giữa nhóm bạn bè và ở nơi làm việc. Tuy nhiên có đôi lúc bạn thấy một ai đó, hoặc chính bạn, dường như hoàn toàn không có khả năng thay đổi hoặc thỏa hiệp. Có thể đây là một trường hợp mắc bệnh rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD). Chỉ có chuyên gia được đào tạo về sức khỏe tâm thần mới có thể chẩn đoán OCPD, nhưng bạn có thể học cách nhận biết vài đặc điểm của chứng bệnh này.
Mục lục
Các bước[sửa]
Nhận biết Đặc điểm Thường gặp của Người OCPD[sửa]
-
Tìm
dấu
hiệu
nhấn
mạnh
tính
hiệu
quả,
sự
hoàn
hảo
và
cứng
nhắc.
Người
OCPD
là
người
cầu
toàn.
Họ
là
người
giữ
kỷ
luật
thái
quá
và
luôn
bận
tâm
đến
tiến
trình,
thủ
tục
và
nguyên
tắc.
Họ
dành
nhiều
thời
gian
và
sức
lực
để
lên
kế
hoạch,
nhưng
tính
cầu
toàn
lại
khiến
họ
không
thể
thực
sự
hoàn
thành
công
việc.[1][2]
- Người OCPD để ý sự việc đến từng chi tiết, và với nhu cầu phải hoàn thiện về mọi mặt, họ có ham muốn mạnh mẽ là kiểm soát mọi khía cạnh của hoàn cảnh xung quanh mình. Họ xét nét hết thảy mọi người mặc dù bị phản kháng.
- Họ tin tưởng mãnh liệt vào việc tuân thủ quy định, đồng thời cho rằng những luật lệ, tiến trình, thủ tục phải được tuân theo và mọi bước chệch khỏi tiêu chuẩn đó đều dẫn đến kết quả không hoàn hảo.
- Hành vi này được xác định ở tiêu chuẩn 1 về bệnh OCPD trong sách Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ năm (DSM-V).
-
Quan
sát
cách
người
đó
ra
quyết
định
và
hoàn
thành
công
việc.
Sự
do
dự
và
thiếu
khả
năng
hoàn
thành
công
việc
là
“thương
hiệu”
của
người
OCPD.
Với
tính
cầu
toàn
của
mình,
người
OCPD
rất
cẩn
trọng
khi
cố
gắng
quyết
định
làm
việc
gì,
vào
lúc
nào
và
như
thế
nào.
Họ
thường
nghiên
cứu
mọi
việc
đến
từng
chi
tiết,
bất
kể
nó
có
liên
quan
đến
quyết
định
trước
mắt
hay
không.
Người
OCPD
rất
ghét
sự
bốc
đồng
hoặc
tính
mạo
hiểm.[2]
- Ngay cả trong những việc rất nhỏ, người OCPD cũng gặp khó khăn khi quyết định và thực hiện. Họ mất nhiều thời gian quý giá chỉ để cân lên đặt xuống từng dự định của mình, bất kể nhỏ nhặt đến đâu.
- Sự chú trọng vào tính hoàn hảo cũng khiến người OCPD làm đi làm lại mãi một công việc; ví dụ như họ kiểm tra một tài liệu cẩn thận đến mức đọc đi đọc lại đến 30 lần, và kết quả là không thể hoàn thành đúng giờ. Tính lặp lại và tiêu chuẩn cao đến phi lý của họ thường khiến họ làm việc thiếu hiệu quả.
- Hành vi này được xác định ở tiêu chuẩn 2 về bệnh OCPD trong sách Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ năm (DSM-V).
-
Xem
xét
cách
người
đó
phản
ứng
trong
các
tình
huống
xã
hội.
Người
OCPD
thường
mang
một
vẻ
“lạnh
lùng”
hoặc
“vô
tâm”
vì
họ
tập
trung
vào
hiệu
suất
và
sự
hoàn
hảo
đến
độ
bỏ
qua
những
khía
cạnh
như
quan
hệ
xã
hội
và
tình
cảm
lãng
mạn.[2]
- Nếu có tham gia những hoạt động giao lưu với những người khác, người OCPD có vẻ không tận hưởng mà lại lo bận tâm rằng lẽ ra sự kiện phải làm sao cho tốt hơn hoặc họ cho rằng mình đang “phí thì giờ” khi vui chơi.
- Người OCPD cũng có thể làm người khác khó chịu trong các sinh hoạt cộng đồng bởi tính nguyên tắc và cầu toàn của họ. Ví dụ họ có thể cực kỳ bức xúc với “luật chơi” của cờ tỷ phú vì nó không phải là những luật lệ “chính tắc”. Họ có thể từ chối không chơi, hoặc dài dòng bình phẩm, hoặc tìm cánh để cải tiến trò chơi.
- Hành vi này được xác định ở tiêu chuẩn 3 về bệnh OCPD trong Sổ tay Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ năm (DSM-V).
-
Xem
xét
quan
niệm
của
người
đó
về
đạo
đức
và
phẩm
hạnh.
Người
OCPD
quan
tâm
quá
mức
về
đạo
đức
và
phẩm
hạnh,
về
những
điều
đúng
và
sai.
Họ
quá
chú
trọng
về
việc
làm
“điều
đúng
đắn”
với
một
khái
niệm
cứng
nhắc,
và
ở
họ
không
có
chỗ
cho
sự
tương
đối
hay
sai
lầm.
Họ
liên
tục
lo
lắng
về
mọi
luật
lệ
mà
mình
có
thể
đã
vi
phạm.
Họ
thường
vô
cùng
kính
trọng
các
cấp
có
thẩm
quyền
và
tuân
thủ
các
luật
lệ
và
quy
tắc,
cho
dù
có
vẻ
vô
nghĩa
thế
nào.[2]
- Người OCPD áp đặt các quan niệm về đạo đức và giá trị của họ lên người khác. Họ khó có thể chấp nhận rằng có người lại có quan niệm đạo đức khác biệt với họ, cho dù người kia đến từ một nền văn hóa khác.
- Người OCPD thường hà khắc với bản thân và với những người khác. Họ có thể coi những lỗi lầm lặt vặt và những vi phạm nhỏ là thiếu đạo đức. “Tình tiết giảm nhẹ” không tồn tại trong quan niệm của người OCPD.
- Hành vi này được xác định ở tiêu chuẩn 4 về bệnh OCPD trong Sổ tay Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ năm (DSM-V).
-
Để
ý
đến
hành
vi
tích
trữ
của
người
đó.
Tích
trữ
đồ
vật
là
một
biểu
hiện
điển
hình
của
bệnh
rối
loạn
ám
ảnh
cưỡng
chế,
nhưng
nó
cũng
tác
động
đến
người
OCPD.
Người
OCPD
khư
khư
giữ
lại
ngay
cả
những
món
đồ
vô
dụng
và
chẳng
mấy
giá
trị.[3]
Có
thể
họ
thu
thập
và
cất
giữ
với
ý
nghĩ
rằng
chẳng
có
gì
là
vô
dụng
cả:
“Biết
đâu
lại
có
lúc
cần
đến!”[4]
- Họ tích trữ đủ thứ, từ thức ăn cũ thừa từ hôm trước cho đến những chiếc thìa nhựa hoặc pin cũ. Nếu họ có thể tưởng tượng ra được bất cứ lý do nào khiến món đồ đó trở nên hữu ích thì họ đều giữ lại.
- Người tích trữ yêu quý “kho báu” của mình và rất bực bội nếu người khác làm xáo trộn “bộ sưu tập” của họ. Họ ngạc nhiên khi thấy mọi người không hiểu lợi ích của việc tích trữ.
- Hành động tích trữ rất khác với sưu tầm. Những người sưu tầm cảm thấy thích thú và vui sướng với những vật họ sưu tầm, nhưng họ không lo âu khi bỏ đi các món đồ cũ kỹ, vô dụng hoặc không cần thiết. Người tích trữ thường bứt rứt nếu phải bỏ đi bất cứ thứ gì, ngay cả khi nó không còn sử dụng được nữa (chẳng hạn như một chiếc Ipod đã hỏng).[5]
- Hành vi này được xác định ở tiêu chuẩn 5 về bệnh OCPD trong Sổ tay Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ năm (DSM-V).
-
Tìm
biểu
hiện
khó
khăn
khi
giao
phó
công
việc
của
họ.
Người
OCPD
thường
nổi
tiếng
là
“kiểm
soát
gắt
gao”.
Rất
hiếm
khi
họ
giao
trách
nhiệm
cho
người
khác
bởi
họ
lo
rằng
công
việc
sẽ
không
được
làm
tốt
theo
tiêu
chuẩn
của
họ.
Nếu
có
thì
họ
sẽ
kèm
theo
một
danh
sách
dài
dằng
dặc,
hướng
dẫn
thực
hiện
ngay
cả
những
công
việc
đơn
giản
như
xếp
bát
đĩa
vào
máy
rửa
bát.[3]
- Người OCPD thường hay chỉ trích hoặc cố gắng “sửa” người khác nếu thấy cách làm của mọi người không giống như mình, tuy phương pháp khác cũng có hiệu quả hoặc đem lại cùng một kết quả như thế. Họ không thích người khác đề xuất các cách làm khác, thậm chí có thể phản ứng lại với sự ngạc nhiên và giận dữ.
- Hành vi này được xác định ở tiêu chuẩn 6 về bệnh OCPD trong Sổ tay Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ năm (DSM-V).
-
Quan
sát
hành
vi
chi
tiêu
của
người
đó.
Người
OCPD
không
những
không
chịu
loại
bỏ
những
thứ
vô
dụng,
họ
còn
suốt
ngày
“tích
cốc
phòng
cơ”.
Họ
thường
đắn
đo
khi
tiêu
tiền,
ngay
cả
trong
việc
mua
sắm
những
thứ
thiết
yếu
vì
còn
lo
dành
dụm
cho
bất
trắc
trong
tương
lai.
Họ
sống
với
mức
sống
thấp
hơn
nhiều
so
với
thu
nhập
của
mình,
thậm
chí
không
đạt
đến
tiêu
chuẩn
của
cuộc
sống
lành
mạnh
chỉ
để
tiết
kiệm
tiền.
- Điều này cũng có nghĩa là họ không thể bỏ tiền của mình ra để giúp đỡ người khác khi cần. Họ cũng thường can ngăn người khác tiêu tiền.
- Hành vi này được xác định ở tiêu chuẩn 7 về bệnh OCPD trong Sổ tay Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ năm (DSM-V).
-
Xét
về
mức
độ
ương
bướng
của
người
đó.
Người
OCPD
cực
kỳ
cố
chấp
và
thiếu
linh
hoạt.
Họ
không
thích
và
không
chấp
nhận
người
khác
nghi
ngờ
hoặc
chất
vấn
những
dự
định,
hành
động,
hành
vi,
ý
tưởng
hay
niềm
tin
của
họ.
Họ
luôn
cho
rằng
mình
đúng
và
không
gì
có
thể
thay
thế
những
điều
họ
làm
hoặc
cách
họ
làm.[3]
- Họ cho rằng bất cứ ai phản đối hoặc không chịu sự áp đặt của họ đều là bất hợp tác và thiếu trách nhiệm.
- Tính cố chấp này thường khiến cho cả những bạn bè thân thiết hoặc người nhà cảm thấy khó chịu khi tương tác với người đó. Ngay cả người thân cũng không thể đặt vấn đề hay đưa ra đề nghị đối với người OCPD.
- Hành vi này được xác định ở tiêu chuẩn 8 về bệnh OCPD trong Sổ tay Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ năm (DSM-V).
Nhận diện Người OCPD trong các Mối quan hệ[sửa]
-
Tìm
dấu
hiệu
của
sự
va
chạm.
Người
OCPD
thẳng
thừng
áp
đặt
ý
tưởng
và
cách
nhìn
nhận
lên
người
khác,
ngay
cả
trong
những
tình
huống
mà
hầu
hết
mọi
người
đều
cho
rằng
không
phù
hợp.
Người
OCPD
thường
không
nghĩ
rằng
thái
độ
và
hành
vi
như
thế
sẽ
khiến
mọi
người
bực
bội
và
sẽ
dẫn
đến
xích
mích
trong
quan
hệ,
và
họ
cũng
sẽ
không
ngừng
việc
họ
đã
định
làm.[3]
- Người OCPD dường như không có cảm giác có lỗi khi vượt giới hạn, ngay cả khi đó là hành vi giám sát, kiểm soát, can thiệp và xâm phạm vào cuộc sống của người khác để áp đặt sự hoàn hảo và trật tự trong mọi việc.
- Họ bực bội, giận dữ và thất vọng nếu người khác không làm theo sự chỉ đạo của họ. Họ có thể nổi giận hoặc bức xúc nếu mọi người có vẻ không ủng hộ khi họ nỗ lực kiểm soát và làm cho mọi việc hoàn hảo.
-
Tìm
sự
mất
cân
bằng
trong
đời
sống
công
việc.
Người
OCPD
nói
chung
thường
dành
phần
lớn
thời
gian
thức
của
họ
để
làm
việc
–
và
đó
là
lựa
chọn
của
họ.
Họ
hiếm
khi
bỏ
thì
giờ
để
giải
trí.
Thời
gian
giải
trí
của
họ,
nếu
có,
chỉ
là
để
cố
gắng
“cải
tiến”
thứ
này
hay
thứ
khác.
Vì
thế,
người
OCPD
không
có
nhiều
bạn
(hoặc
hầu
như
không
có
mối
quan
hệ
bạn
bè).
- Nếu người OCPD cố gắng dành thời gian tiêu khiển bằng một sở thích hoặc một hoạt động nào đó như vẽ hoặc các môn thể thao như tennis, họ không làm những việc đó vì vui thú. Họ không ngừng theo đuổi để trở nên tài giỏi trong nghệ thuật hoặc thể thao. Họ sẽ áp đặt nguyên lý đó cho các thành viên trong gia đình và trông đợi người nhà phải vươn tới sự nổi trội chứ không chỉ để vui chơi.[6]
- Sự can thiệp gây phiền nhiễu của họ khiến mọi người xung quanh khó chịu. Nó không những phá hỏng thời gian tiêu khiển mà còn có thể hủy hoại mối quan hệ.
-
Quan
sát
cách
người
đó
thể
hiện
cảm
xúc
với
người
khác.Đối
với
đa
số
những
người
mắc
chứng
OCPD,
thể
hiện
tình
cảm
tức
là
bỏ
phí
thì
giờ
quý
giá
lẽ
ra
nên
dùng
để
tìm
kiếm
sự
hoàn
hảo.
Nói
chung
họ
rất
dè
dặt
khi
thể
hiện
cảm
xúc.
- Tính dè dặt này cũng xuất phát từ mối bận tâm rằng mỗi biểu hiện tình cảm đều phải hoàn hảo; Người OCPD phải cân nhắc rất lâu khi nói ra bất cứ điều gì trong biểu hiện tình cảm để đảm bảo tính “đúng đắn”.[3]
- Người OCPD có vẻ kiểu cách hoặc quá trịnh trọng khi họ cố gắng thể hiện cảm xúc. Chẳng hạn họ bắt tay trong khi đối tác định ôm, hoặc họ dùng những từ ngữ quá cứng nhắc để cố làm sao cho “đúng”.
-
Xem
xét
cách
người
đó
phản
ứng
với
cảm
xúc
của
người
khác.
Người
OCPD
không
những
có
vấn
đề
trong
thể
hiện
cảm
xúc,
mà
họ
còn
gặp
khó
khăn
trong
việc
chấp
nhận
sự
biểu
lộ
cảm
xúc
ở
người
khác.
Người
OCPD
có
thể
khó
chịu
ra
mặt
khi
mọi
người
bày
tỏ
tình
cảm
(ví
dụ
trong
các
sự
kiện
thể
thao
hoặc
đoàn
tụ
gia
đình).[3]
- Chẳng hạn như, đa số mọi người sẽ chào mừng một người bạn đã lâu không gặp với thái độ hồ hởi và cảm động. Nhưng người OCPD có thể không tỏ ra như vậy, thậm chí họ còn không mỉm cười hoặc giang tay ôm.
- Dường như họ có cảm giác “đứng trên” tình cảm và coi những người thể hiện cảm xúc là “phiền toái” hoặc tầm thường.
Nhận biết Người OCPD tại Nơi làm việc[sửa]
-
Xem
xét
lịch
trình
làm
việc
của
người
đó.
Chưa
nói
đến
việc
bắt
buộc
phải
làm,
nhiệm
vụ
nặng
nề
trong
công
việc
lại
khiến
người
OCPD
cảm
thấy
thỏa
mãn
là
khác.
Họ
là
người
tham
công
tiếc
việc,
nhưng
theo
kiểu
gây
khó
khăn
cho
người
khác.
Người
OCPD
coi
mình
là
người
lao
động
trung
thành
và
có
trách
nhiệm.
Họ
dành
nhiều
thời
gian
miệt
mài
với
công
việc
mặc
dù
chẳng
đem
lại
hiệu
quả
là
bao.[7]
- Điều này thường được người OCPD áp dụng cho bản thân và họ chờ đợi mọi nhân viên khác trong công ty cũng phải làm theo cho đồng bộ.
- Nói chung, người OCPD bỏ nhiều thời gian để làm việc nhưng là một tấm gương xấu và không thể làm hình mẫu tiên phong cho những người làm dưới quyền hoặc làm việc chung với họ noi theo. Họ là người thiên về công việc hơn là thiên về con người (mối quan hệ). Họ không thể tạo thế cân bằng giữa nhiệm vụ và mối quan hệ. Họ cũng không có khả năng khuyến khích người khác làm theo họ và theo sự chỉ đạo của họ.
- Tuy nhiên bạn cũng cần biết là theo văn hóa ở một vài nơi, người ta đánh giá cao một người làm việc nhiều giờ hoặc dành phần lớn thời gian ở nơi làm việc. Điều này không giống với bệnh OCPD.
- Đối với người OCPD, làm việc không phải là bắt buộc mà là tự nguyện.
-
Nhìn
cách
tương
tác
của
người
đó.
Người
OCPD
cứng
nhắc
và
bướng
bỉnh
trong
cách
tiếp
cận
tình
huống,
kể
cả
đối
với
đồng
nghiệp
và
nhân
viên.
Họ
có
thể
“can
thiệp
quá
mức”
vào
cuộc
sống
cá
nhân
của
đồng
nghiệp,
không
để
ý
đến
ranh
giới
và
không
cho
người
khác
không
gian
riêng
tư.
Họ
mặc
nhiên
cho
rằng
cách
họ
cư
xử
ở
nơi
làm
việc
là
cách
mà
mọi
người
nên
làm.[8]
- Ví dụ, một người quản lý mắc chứng OCPD có thể bác đơn xin nghỉ vì lý do cá nhân của nhân viên vì cho rằng không xác đáng. Họ tin rằng sự trung thành của nhân viên trước nhất phải dành cho công ty hơn bất cứ bổn phận nào khác (kể cả gia đình).
- Người OCPD không cho rằng ở họ hoặc cách làm việc của họ có bất cứ điều gì sai. Họ coi bản thân mình là một ví dụ điển hình cho sự hoàn hảo và trật tự. Đối với họ, nếu ai đó khó chịu với thái độ này thì chỉ là vì người đó không đáng tin cậy và không chịu tin vào công việc vì lợi ích của tổ chức.
-
Tìm
dấu
hiệu
can
thiệp
vào
việc
của
người
khác.
Người
OCPD
cảm
thấy
rằng
những
người
khác
không
biết
làm
như
thế
nào
là
tốt
nhất.
Họ
cho
rằng
cách
của
mình
là
cách
làm
việc
duy
nhất
và
tốt
nhất.
Việc
hợp
tác
và
cộng
tác
không
được
họ
đánh
giá
cao.
- Người OCPD thường là một người “xét nét” hoặc một “đồng đội” khủng khiếp vì họ thường buộc người khác phải làm theo cách của họ.
- Người OCPD không thấy thoải mái khi để cho người khác tự làm theo cách riêng vì sợ rằng người đó mắc lỗi. Họ miễn cưỡng giao trách nhiệm cho người khác và giám sát từng ly từng tí nếu buộc phải giao việc. Hành vi và thái độ của họ cho thấy rằng họ không tin người khác và không đặt niềm tin vào khả năng của người khác.
-
Tìm
dấu
hiệu
không
đáp
ứng
đúng
thời
hạn.
Người
OCPD
thường
xuyên
mải
mê
theo
đuổi
sự
hoàn
hảo
đến
mức
không
kịp
hoàn
thành
nhiệm
vụ
đúng
thời
hạn,
ngay
cả
những
công
việc
quan
trọng.
Họ
gặp
nhiều
khó
khăn
trong
việc
quản
lý
thời
gian
sao
cho
hiệu
quả
vì
lo
để
tâm
vào
từng
chi
tiết
nhỏ
nhặt.
- Bản tính, thái độ và những quy tắc của họ qua thời gian sẽ tạo ra xung đột và đẩy họ vào thế cô lập vì ngày càng có nhiều người tỏ ra không hài lòng khi làm việc với họ. Thái độ ương ngạnh và tính cầu toàn của họ làm phức tạp mọi thứ ở nơi làm việc và có thể chạm đến mức đẩy những người ngang hàng hoặc cấp dưới ra xa.
- Khi mất đi hệ thống hỗ trợ, họ càng trở nên cứng rắn hơn để chứng minh cho mọi người thấy rằng không có gì thay thế được cách làm của họ. Điều này lại càng khiến họ rơi vào sự cô lập.
Tìm kiếm Điều trị[sửa]
- Đến gặp chuyên gia sức khỏe tâm thần. Chỉ có chuyên gia sức khỏe tâm thần mới có thể chẩn đoán và điều trị người OCPD. May mắn là việc điều trị chứng OCPD thường có hiệu quả hơn các chứng rối loạn nhân cách khác.[9] Một chuyên gia sức khỏe tâm thần thích hợp phải là nhà tâm lý học hoặc bác sĩ tâm thần; hầu hết bác sĩ gia đình và bác sĩ khám tổng quát không được đào tạo để xác định bệnh OCPD.
- Tham gia vào quá trình trị liệu. Liệu pháp trò chuyện, và đặc biệt là liệu pháp hành vi – nhận thức (CBT) được coi là cách điều trị có hiệu quả cao cho người OCPD.[9] CBT do chuyện gia sức khỏe tâm thần đảm nhiệm, bao gồm việc dạy cho người bệnh cách nhận biết và thay đổi lối suy nghĩ và hành vi vô ích.[10]
- Hỏi bác sĩ về thuốc điều trị. Hầu hết các trường hợp OCPD đều có thể chữa trị bằng liệu pháp tâm lý là đủ. Tuy nhiên đối với một số trường hợp, bác sĩ có thể đề nghị dùng thuốc như Prozac, một loại thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc (SSRI).[11]
Hiều về Chứng rối loạn[sửa]
-
Tìm
hiểu
về
OCPD.
OCPD
còn
được
gọi
là
anankastic
personality
disorder
(tùy
vào
vị
trí
địa
lý
bạn
đang
sống).[12]
Như
tên
gọi
của
nó,
đây
là
một
chứng
rối
loạn
nhân
cách,
xảy
ra
khi
xuất
hiện
các
dạng
thức
không
thích
nghi
trong
suy
nghĩ,
hành
vi
và
trải
nghiệm,
vượt
qua
nhiều
bối
cảnh
khác
nhau
và
ảnh
hưởng
đáng
kể
đến
cuộc
sống
của
người
đó.
- Như vậy, ở trường hợp OCPD, người bệnh luôn có nhu cầu về quyền lực và kiểm soát môi trường xung quanh. Những triệu chứng này có thể bao gồm dạng thức điển hình là sự chú trọng về sự ngăn nắp, tính hoàn hảo, sự kiểm soát về tâm lý và quan hệ cá nhân.
- Kiểu kiểm soát như thế triệt tiêu tính hiệu quả, sự cởi mở và tính linh hoạt, bởi vì niềm tin cứng nhắc của người đó thường cản trở khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
-
Phân
biệt
giữa
OCPD
và
rối
loạn
ám
ảnh
cưỡng
chế.
OCPD
là
một
chứng
bệnh
hoàn
toàn
khác
với
chứng
rối
loạn
ám
ảnh
cưỡng
chế
(OCD),
mặc
dù
hai
chứng
bệnh
này
có
một
số
biểu
hiện
chung.[9]
- Như tên gọi ngụ ý, sự ám ảnh có nghĩa là suy nghĩ và cảm giác của người bệnh hoàn toàn bị lấn át vì một ý nghĩ dai dẳng. Ý nghĩ này có thể là sự sạch sẽ, an toàn hoặc nhiều thứ khác có ý nghĩa to lớn đối với người đó.
- Sự cưỡng chế bao gồm hành động dai dẳng và lặp đi lặp lại mà không được đền đáp hoặc đem lại sự hài lòng.[13] Những hành động này thường được thực hiện để xua đi nỗi ám ảnh, chẳng hạn như rửa tay nhiều lần vì ám ảnh về sạch sẽ hoặc kiểm tra ổ khóa đến 32 lần với nỗi ám ảnh rằng nếu không làm vậy thì sẽ có kẻ đột nhập vào nhà.
- Chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế là một rối loạn lo âu, trong đó sự ám ảnh phải được xử trí bằng những hành vi cưỡng chế. Người bị OCD thường biết rằng nỗi ám ảnh của họ là phi lý hoặc không có lý do, nhưng họ vẫn cảm thấy không thể tránh được.[14] OCPD là một chứng rối loạn nhân cách, trong đó người bệnh thường không nhận ra rằng những suy nghĩ và nhu cầu kiểm soát cứng nhắc về mọi mặt trong đời sống của họ là vô lý và có vấn đề.[9]
-
Nhận
biết
tiêu
chuẩn
chẩn
đoán
bệnh
OCPD.
Sổ
tay
Hướng
dẫn
Chẩn
đoán
và
Thống
kê
Rối
loạn
Tâm
thần,
ấn
bản
thứ
5
(DSM-V)
chỉ
ra
rằng,
một
người
mắc
chứng
OCPD
phải
có
từ
bốn
triệu
chứng
trở
lên,
biểu
hiện
trong
nhiều
bối
cảnh
khác
nhau
và
gây
cản
trở
cho
cuộc
sống
của
người
đó
như
sau:[15]
- Bận tâm về các chi tiết, nguyên tắc, danh sách, trật tự, tổ chức hoặc lịch trình đến một mức độ làm mất đi mục tiêu chính của hoạt động.
- Biểu hiện sự cầu toàn gây cản trở cho sự hoàn thành công việc. (Ví dụ như không có khả năng hoàn thành dự án vì tiêu chuẩn quá khắt khe của riêng họ không được đáp ứng).
- Tận tụy thái quá với công việc và năng suất đến mức gạt bỏ các hoạt động giải trí và mối quan hệ bạn bè (không tính những hoạt động hoặc quan hệ cần thiết vì lợi ích kinh tế rõ ràng)
- Cẩn trọng quá mức, đắn đo và cứng nhắc về vấn đề đạo đức, phẩm hạnh hay giá trị (không tính đến đặc điểm về tôn giáo hay văn hóa)
- Không thể từ bỏ những đồ vật cũ kỹ và vô giá trị, ngay cả khi chúng không có giá trị tinh thần nào.
- Rất do dự khi giao nhiệm vụ cho người khác hoặc làm việc với người khác trừ khi mọi người tuân theo chính xác cách làm của người đó.
- Thói quen chi tiêu dè sẻn khổ sở cho cả bản thân và với những người khác; họ coi tiền là một thứ để dành dụm khi cơ nhỡ.
- Có biểu hiện rất cứng nhắc và cố chấp.
-
Nhận
biết
tiêu
chuẩn
của
bệnh
rối
loạn
nhân
cách
ám
ảnh
cưỡng
chế.
Tương
tự,
bảng
Phân
loại
Quốc
tế
về
Bệnh
tật
lần
10
của
Tổ
chức
Y
tế
Thế
giới
đã
chỉ
ra
rằng
một
bệnh
nhân
đủ
tiêu
chuẩn
chẩn
đoán
rối
loạn
nhân
cách
(như
đã
đề
cập
ở
trên)
và
có
ba
trong
số
các
triệu
chứng
sau
đây
thì
được
chẩn
đoán
là
mắc
chứng
rối
loạn
nhân
cách
ám
ảnh
cưỡng
chế:
- Có cảm giác hoài nghi và cẩn trọng thái quá;
- Bận tâm đến các chi tiết, nguyên tắc, danh sách, trật tự, tổ chức hoặc lịch trình;
- Tính cầu toàn gây cản trở cho sự hoàn thành công việc;
- Tận tâm quá mức, đắn đo và bận tâm với năng suất đến mức gạt bỏ thú vui và các mối quan hệ cá nhân;
- Đứng đắn thái quá và bám chặt vào các quy ước xã hội;
- Cứng nhắc và ương bướng;
- Khăng khăng một cách phi lý đòi người khác phải phục tùng chính xác cách làm của họ, hoặc miễn cưỡng giao việc cho người khác;
- Có những suy nghĩ và cơn bột phát không đúng lúc và dai dẳng.
-
Biết
một
số
yếu
tố
nguy
cơ
của
OCPD.
OCPD
là
một
trong
những
rối
loạn
nhân
cách
thường
gặp
nhất;
DSM-V
ước
tính
có
khoảng
2,1%
đến
7,9%
dân
số
chung
mắc
chứng
OCPD.[16]
Bệnh
này
cũng
thường
xảy
ra
trong
gia
đình,
do
đó
OCPD
có
thể
mang
yếu
tố
di
truyền.[9]
- Nam giới có tỷ lệ mắc OCPD cao gấp đôi nữ giới.[16]
- Trẻ nhỏ lớn lên trong gia đình cứng nhắc và kiểm soát có nhiều khả năng mắc OCPD.[17]
- Trẻ nhỏ được cha mẹ nuôi dạy quá nghiêm khắc và hay chê trách hoặc bảo vệ thái quá có khả năng cao phát triển bệnh OCPD.[17]
- 70% người OCPD đồng thời cũng mắc chứng trầm cảm.[18]
- Khoảng 25-50% người OCD cũng bị OCPD.[18]
Lời khuyên[sửa]
- Lưu ý rằng chỉ có chuyên gia về sức khỏe đủ năng lực mới có thể chẩn đoán người mắc chứng rối loạn này.
- Bạn hoặc người quen của bạn có thể có từ 3 triệu chứng trở lên trong tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế hoặc 4 triệu chứng/dấu hiệu trở lên liên quan đến OCPD, nhưng chưa chắc đã mắc chứng bệnh này. Việc hỗ trợ tư vấn vẫn có thể giúp ích cho nhóm này.
- Dùng thông tin trên đây để biết bạn hoặc người quen của bạn có cần tìm kiếm sự trợ giúp không.
- Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và APA (Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ) nghiên cứu trên hai bản riêng biệt DSM và ICD. Hai bản này nên được xem xét kết hợp với nhau.[19]
Nguồn và Trích dẫn[sửa]
- ↑ http://edmonton.cmha.ca/mental_health/obsessive-compulsive-personality-disorder/#.U1B3nVca1PY
- ↑ 2,0 2,1 2,2 2,3 American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Washington, DC: APA. p. 679
- ↑ 3,0 3,1 3,2 3,3 3,4 3,5 American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Washington, DC: APA. p. 680.
- ↑ http://www.adaa.org/understanding-anxiety/obsessive-compulsive-disorder-ocd/hoarding-basics
- ↑ http://www.adaa.org/living-with-anxiety/ask-and-learn/ask-expert/what-hoarding-and-how-do-i-know-if-i%E2%80%99m-hoarder-what-dif
- ↑ American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Washington, DC: APA. p. 679.
- ↑ http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/personality-disorders/basics/symptoms/con-20030111
- ↑ Mark Unterberg. Personality Disorders in the Workplace: The Overinvolved, Underachieving Manager. Business and Health Jul. 1, 2003;21.
- ↑ 9,0 9,1 9,2 9,3 9,4 http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/000942.htm
- ↑ http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3138327/
- ↑ http://psychcentral.com/disorders/sx26t.htm
- ↑ Barlow, D.H. & Durand, V.M. (2009) Abnormal Psychology: An integrative approach (5th edn). Wadsworth: CA.
- ↑ Barker, P. (2002) Psychiatric and Mental Health Nursing
- ↑ http://www.nimh.nih.gov/health/topics/obsessive-compulsive-disorder-ocd/index.shtml
- ↑ American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Washington, DC: APA. p. 678-9.
- ↑ 16,0 16,1 American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Washington, DC: APA. p. 681.
- ↑ 17,0 17,1 https://iocdf.org/wp-content/uploads/2014/10/OCPD-Fact-Sheet.pdf
- ↑ 18,0 18,1 http://www.dsm5.org/research/pages/obsessivecompulsivespectrumdisordersconference(june20-22,2006).aspx
- ↑ http://www.dsm5.org/about/pages/faq.aspx#10