Nhận biết dị ứng đậu phộng

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Đậu phộng (lạc) là một trong tám dị nguyên hàng đầu cộng lại gây ra 90% số ca dị ứng thức ăn. Bảy dị nguyên còn lại là sữa, trứng, cá có vây, sò, quả hạch, lúa mì và đậu nành. Từ góc nhìn y học, dị ứng đậu phộng có thể được xử lý như dị ứng các loại thực phẩm khác về triệu chứng, điều trị và xét nghiệm chẩn đoán. Phản ứng xã hội về dị ứng đậu phộng là vấn đề gây nhiều tranh cãi ở Mỹ.

Các bước[sửa]

Theo dõi các triệu chứng[sửa]

  1. Quan sát các triệu chứng cho thấy phản ứng dị ứng. Bơ đậu phộng là thức ăn chủ yếu cho trẻ em ở tuổi đi học vì có giá trị dinh dưỡng cao và lại rẻ. Điều quan trọng là xác định liệu con của bạn có bị dị ứng không trước khi gửi trẻ đến trường, nơi trẻ có thể bị phơi nhiễm, trừ khi có sự đề phòng trước.
    • Trẻ không có tiền sử gia đình bị dị ứng thức ăn không cần thử nghiệm y khoa chính thức để đánh giá dị ứng.
      • Một nghiên cứu đã được tiến hành trên các trẻ em có anh chị em ruột bị dị ứng đậu phộng bằng thử nghiệm ImmunoCap. Kết quả cho thấy dị ứng đậu phộng tăng mạnh ở các anh chị em ruột của các bệnh nhân dị ứng đậu phộng.[1]
    • Người ta tin rằng dị ứng chỉ bắt đầu xảy ra ở lần phơi nhiễm thứ hai trở lên. Trong lần phơi nhiễm đầu tiên, cơ thể sẽ xác định thức ăn này có “an toàn” không, do đó cách tiếp cận tốt nhất là thử thức ăn dần dần và từng ít một trong vài tuần, cũng giống như cho em bé làm quen với thức ăn mới.
    • Các màng nhầy có thể sẽ nhạy cảm nếu bệnh nhân bị dị ứng mạnh, do đó không phải lúc nào ăn cũng là cách để thử. Đầu tiên bạn hãy kiểm tra xem liệu con bạn có khó chịu với mùi (đau xoang hoặc hắt xì), phản ứng trên da ở mu bàn tay, môi bị bỏng rát hoặc tê như kim châm khi tiếp xúc với thức ăn không.
    • Với mức rủi ro cao, tốt nhất là thực phẩm trong top 8 cần được ăn chậm, bởi vì một khi đã vào dạ dày thì dị nguyên không thể ra hết được, cho dù có nôn ra.
  2. Làm theo các hướng dẫn này để nhận diện phản ứng dị ứng
    • Dị ứng đậu phộng được cho rằng có khả năng nghiêm trọng hơn các dị ứng thực phẩm khác.
    • Một số phản ứng dị ứng với thức ăn có thể xảy ra trong vòng 2 tiếng sau khi ăn.[2] Một số phản ứng khác như phản ứng quá mẫn - còn gọi là phản ứng phản vệ (anaphylaxis) có thể xảy ra trong vài phút.
    • Nếu các triệu chứng dị ứng ở mức nhẹ, bạn hãy theo dõi khoảng thời gian từ lúc ăn vào cho đến lúc xuất hiện các triệu chứng là bao lâu.
  3. Ghi lại tất cả các thức ăn mà người đó ăn trong vài giờ đồng hồ cho đến khi có biểu hiện phản ứng, kể cả số lượng và thành phần thức ăn.
    • Chú ý đến các dị ứng khác. Khoảng 25-35% số người dị ứng với đậu phộng cũng dị ứng với các loại quả hạch khác. Nếu một người có biểu hiện dị ứng khi ăn quả hạch, người đó cũng có thể bị dị ứng đậu phộng.
  4. Kiểm tra thành phần trên nhãn. Nếu nghi ngờ bị dị ứng đậu phộng, bạn nên kiểm tra nhãn thực phẩm mới ăn gần đây. Đậu phộng thường có trong các thức ăn chế biến sẵn hoặc có thể phơi nhiễm do đợt sản xuất nào đó bị lây nhiễm chéo trong quá trình chế biến trong nhà máy.

Xác định chứng dị ứng đậu phộng[sửa]

  1. Đến gặp chuyên gia về dị ứng hoặc chuyên gia nghiên cứu miễn dịch. Nếu bạn hoặc bác sĩ gia đình nghi ngờ bạn bị dị ứng đậu phộng, bạn cần nhanh chóng hẹn gặp chuyên gia dị ứng hoặc chuyên gia miễn dịch. Quá trình khám chuyên khoa bắt đầu bằng việc xem xét kỹ lưỡng về tiền sử bệnh và khám lâm sàng. Buổi khám bệnh sẽ tập trung vào những biểu hiện phản ứng của bạn khi tiếp xúc với đậu phộng hoặc quả hạch.
    • Thái độ thích nghi với dị ứng thức ăn có thể tác động lớn đến lối sống, chất lượng cuộc sống và sức khỏe tinh thần của bạn. Chuẩn bị ứng phó với các phản ứng dị ứng có thể xảy ra là điều quan trọng, nhưng bạn cũng không nên sống trong lo âu chỉ vì một vài xét nghiệm có khả năng cho kết quả dương tính giả.
    • Hỏi về các phương pháp điều trị giải mẫn cảm (desensitization) được gọi là liệu pháp miễn dịch (immunotherapy) nhằm giảm rủi ro xảy ra phản ứng nghiêm trọng khi vô tình phơi nhiễm với một lượng nhỏ dị nguyên. Liệu pháp miễn dịch có nhiều liệu trình khác nhau, và một số liệu trình vẫn còn đang thử nghiệm y khoa.
  2. Làm xét nghiệm dị ứng. Một số xét nghiệm miễn dịch có thể được áp dụng để kích thích phản ứng IgE. Phản ứng này sẽ giúp bác sĩ đánh giá mức độ dị ứng đậu phộng. Tuy nhiên, cuối cùng cách duy nhất để có kết quả hoàn toàn chắc chắn là xét nghiệm ăn thử thực phẩm (Oral Challenge test).
    • Nếu bệnh nhân từng có phản ứng phản vệ trước đó, bác sĩ có thể bắt đầu bằng xét nghiệm máu để tránh nguy cơ kích thích phản ứng phản vệ lần nữa. Thông thường xét nghiệm trên da (skin prick test) được thực hiện đầu tiên.
  3. Xét nghiệm trên da. Xét nghiệm này bao gồm việc cho bệnh nhân tiếp xúc với dị nguyên khả nghi. Có khả năng phản ứng phản vệ sẽ xảy ra, do đó thử nghiệm này chỉ được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của chuyên gia dị ứng và chuyên gia miễn dịch có kinh nghiệm về điều trị phản ứng phản vệ.
    • Chuyên gia dị ứng sẽ thực hiện việc chẩn đoán ban đầu khi cho bạn tiếp xúc với các dị nguyên phổ biến. Một lượng nhỏ dung dịch chuẩn sẽ được đặt lên da, sau đó một dụng cụ đặc biệt sẽ tạo nên những vết châm nhẹ và nông trên da.
    • Sau đó chuyên gia dị ứng sẽ đánh dấu sơ đồ vị trí các vết châm để theo dõi vùng da nào được tiêm dị nguyên nào.
    • Bạn sẽ được theo dõi bất cứ phản ứng cấp tính hoặc nguy hiểm nào cần phải chăm sóc lập tức. Mặt khác, các chỗ tiêm cũng được kiểm tra xem liệu có hiện tượng nổi “mề đay”, hoặc vùng da nổi và ngứa, cho thấy hiện tượng dị ứng.
  4. Xét nghiệm máu. Chuyên gia dị ứng sẽ lấy máu để làm xét nghiệm phản ứng IgE. Loại xét nghiệm này có ưu điểm là không gây rủi ro vì bệnh nhân không tiếp xúc với dị nguyên. Tuy nhiên, xét nghiệm máu có thể cho một số kết quả dương tính giả.
    • Hỏi xem có phương pháp xét nghiệm RAST (xét nghiệm phóng xạ miễn dịch) mới hơn hoặc xét nghiệm máu ImmunoCap với đậu phộng không. Xét nghiệm ImmunoCap là phương pháp xét nghiệm RAST thế hệ thứ hai dùng để đo mức IgE của một người với một dị nguyên.
      • Các xét nghiệm này có thể không được bảo hiểm y tế chi trả. Hỏi xem bạn có thể tự trả bằng tiền túi không, hoặc hỏi xem bạn có thể làm xét nghiệm ở đâu nếu cơ sở y tế đó không thực hiện loại xét nghiệm này.
      • Protein trong đậu phộng sẽ được đưa vào phòng thí nghiệm với mẫu máu của bệnh nhân. Các kháng thể người có gắn nhãn bằng chất đồng vị phóng xạ được thêm vào và sẽ liên kết với dị nguyên. Xét nghiệm RAST được xếp hạng từ 0-6, với mức 0 biểu thị không mẫn cảm, và 6 là mức mẫn cảm cao nhất.
      • Xét nghiệm RAST ở mức 3 trở xuống đòi hỏi làm thêm các xét nghiệm cụ thể hơn như xét nghiệm ăn thử để xác nhận.
    • Điều quan trọng là hỏi về tỷ lệ kết quả dương tính giả trong quá trình xét nghiệm máu cơ bản và xét nghiệm trên da.
  5. Xét nghiệm ăn thử thực phẩm. Đây là cách duy nhất để biết chắc chắc một loại dị ứng nào không xảy ra. Phần lớn các trường hợp dị ứng đậu phộng xảy ra nghiêm trọng và có rủi ro phản vệ cao, do đó xét nghiệm này chỉ nên thực hiện dưới sự giám sát trong môi trường y tế có khả năng điều trị cấp cứu nếu cần.
    • Bạn sẽ bắt đầu với một lượng nhỏ dị nguyên, đầu tiên chỉ đặt lên môi trước khi nuốt. Sau mỗi liều thử là một khoảng thời gian chờ, và liều tiếp theo sẽ được tăng lên cho đến khi đạt ngưỡng hoặc khi phản ứng xảy ra.
    • Sau liều thử cuối cùng, bạn cần chờ trong bốn tiếng để đảm bảo không có phản ứng trước khi kết thúc thử nghiệm.
  6. Sử dụng phương pháp thử nghiệm mù kép, kiểm soát giả dược (double-blind placebo-controlled food challenge) như một biện pháp cuối cùng. Thử nghiệm này được dùng để xác định một dị ứng cụ thể. Đây cũng là thử nghiệm dùng để xác định vể khả năng đủ tiêu chuẩn tham gia vào các thử nghiệm y khoa. Thử nghiệm này tốn kém và mất nhiều thời gian.
    • Phương pháp này đòi hỏi bệnh nhân cần thử nghiệm hai lần cách nhau ít nhất một tuần. Một lần bệnh nhân sẽ được dùng dị nguyên, và lần kia là giả dược. Cả bác sĩ và bệnh nhân đều không biết viên nào là dị nguyên; điều này giúp loại trừ khả năng xảy ra phản ứng giả.[3]
    • Việc chỉ ra chính xác dị nguyên tác động đến bệnh nhân sẽ giúp tránh được sự hạn chế không cần thiết trong chế độ ăn.[4]

Bảo vệ người bị dị ứng đậu phộng[sửa]

  1. Dùng bút tiêm Epipen được bác sĩ kê toa. Bút tiêm sẽ tự động tiêm epinephrine để chống phản ứng phản vệ. Đến bác sĩ để được kê toa mua dụng cụ y tế này nếu bạn có khả năng phản ứng phản vệ.
    • Đảm bảo luôn đem bút tiêm Epipen theo mình. Đối với trẻ em, nên có một bút tiêm Epipen ở trường và một ở nhà để trẻ đem theo mọi nơi mọi lúc. Người lớn và thiếu niên cũng nên luôn luôn đem bút tiêm Epipen theo mình.
    • Tham khảo bác sĩ về kỹ thuật tiêm đúng cách.
  2. Thông báo với các thành viên trong gia đình, người chăm sóc và nhân viên nhà trường về tình trạng dị ứng. Thiết lập một cộng đồng có thể giúp bảo vệ người bị dị ứng đậu phộng là một yếu tố sống còn. Trường học là nơi đặc biệt cần chú ý. Các trường hợp dị ứng thức ăn xảy ra ở trường học chiếm tỷ lệ lớn, và các phản ứng có thể nguy hiểm chết người. Trong thời gian hai năm, ước tính có khoảng 18% số học sinh dị ứng thức ăn sẽ có ít nhất một ca phản ứng xảy ra ở trường.[5]
    • Hướng dẫn y tá trường học, người thân trong gia đình và người chăm sóc cách sử dụng nhanh bút tiêm trong trường hợp trẻ vô tình ăn phải đậu phộng.
  3. Đọc kỹ nhãn thực phẩm. Biết cách đọc nhãn thực phẩm là một việc quan trọng. Các nhà sản xuất buộc phải ghi trên nhãn thực phẩm nếu có bất cứ sự phơi nhiễm với đậu phộng nào, trong đó bao gồm cụm từ như “có thể có thành phần đậu phộng” hoặc “được làm tại cơ sở dùng chung thiết bị chế biến đậu phộng”.[6]
  4. Đặt giả định dị ứng đậu phộng nếu xảy ra phản ứng phản vệ. Phản ứng phản vệ xảy ra không chỉ do dị ứng đậu phộng mà còn do các nguyên nhân khác, chẳng hạn như bị ong đốt.[7] Tuy nhiên, dị ứng thức ăn là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến phản ứng phản vệ ở trẻ em dưới bốn tuổi cần được cấp cứu.[8] Bạn cần đặt giả định bệnh nhân bị dị ứng đậu phộng cho đến khi họ được xét nghiệm dị ứng.
    • Ở Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 30.000 ca phản ứng phản vệ, 2.000 ca nhập viện, và 200 ca tử vong.[9]
  5. Gọi cấp cứu ngay khi xảy ra phản ứng phản vệ. Nếu xảy ra phản ứng phản vệ, bệnh nhân cần được đưa tới phòng cấp cứu ngay lập tức. Bệnh nhân cũng cần được tiêm epinephrine bằng dụng cụ y tế như bút tiêm Epipen. [7] Bác sĩ có thể thực hiện một hoặc nhiều thủ thuật sau đây. Trong 90% trường hợp, các thủ thuật này sẽ cứu sống bệnh nhân bị sốc phản vệ.
    • Tiêm tĩnh mạch epinephrine ở phòng cấp cứu.
    • Dùng máy thở nếu bệnh nhân bị suy hô hấp hoặc co thắt thanh quản, một dấu hiệu cho thấy tình trạng suy hô hấp sắp xảy ra. Điều thiết yếu là bệnh nhân phải được đặt ống khí quản trước khi thanh quản bắt đầu co thắt và không thể đặt được.[9]
    • Bệnh nhân có thể được tiêm thuốc ức chế H2 (H2-blockers) như Pepcid hoặc Zantac qua tĩnh mạch để giảm phản ứng histamine.
    • Bệnh nhân cũng có thể được hỗ trợ huyết áp bằng thuốc tăng huyết vasopressors nếu cần thiết.[9]
    • Việc chậm nhận biết phản ứng phản vệ cũng đồng nghĩa với việc chậm sử dụng epinephrine. Ngay cả khi sốc phản vệ nhanh chóng được xác định và điều trị bằng cách tiêm epinephrine, vẫn có 10% trường hợp tử vong.[9]
    • Bệnh nhân thường được quan sát trong nhiều giờ tại cơ sở y tế hoặc phòng cấp cứu sau khi xảy ra phản ứng, vì phản ứng lần thứ hai chậm hơn có thể biểu hiện trong vài giờ sau. Việc theo dõi là cần thiết để đảm bảo an toàn.

Lời khuyên[sửa]

  • Thức ăn nghi ngờ gây dị ứng là thủ phạm trong 90% trường hợp phản ứng toàn thân cấp tính ở trẻ em, trong đó phổ biến nhất là trứng, sữa, đậu nành, sản phẩm lúa mì và đậu phộng. Người lớn thường bị phản ứng với sò, đậu phộng và cá.[10]

Nguồn và Trích dẫn[sửa]

  1. Joel J Liem, Saital Huq, Anita Kozyrskyz, Should Younger Siblings of peanut -allergic patients be assessed by an allergist prior to be being fed peanuts?, Journal of Allergy and Clinical Immunology 2008, 4 144-149.
  2. http://acaai.org/allergies/types/food-allergies
  3. http://my.clevelandclinic.org/health/diagnostics/hic-allergy-tests/hic-food-challenge-test
  4. http://www.nutritionj.com/content/12/1/22
  5. Christina A Eldredge MD, Kenneth Schlerase MD, MPH Food Allergies, A School Based Approach to Management of Allergens in Children, American family Physician 2012 , pp 16-18.
  6. http://www.kidswithfoodallergies.org/page/peanut-allergy.aspx
  7. 7,0 7,1 http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/anaphylaxis/basics/definition/con-20014324
  8. Hugh Sampson MD Peanut Allergies, New England Journal of Medicine Volume 346 No 17 April 25,2000, 1294-1299
  9. 9,0 9,1 9,2 9,3 Sampson, 2000
  10. Kurt Kowalski MD and Robert Boxer MD, Food Allergies: Detection and Management, American Family Physician 2008, 15, 77, 12, 1678-1686